Bài 1: Chuyện của người giữ kho vũ khí năm xưa
QĐND - Chúng tôi vừa thực hiện chuyến công tác tại huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, mảnh đất trong những năm chiến tranh có cửa biển Vàm Lũng nổi tiếng - nơi đón, đưa những con tàu không số chở vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam. Cửa biển Vàm Lũng còn đây; người dân xã Tân Ân, tiếp nối truyền thống cách mạng của lớp cha ông đi trước vẫn cần cù lao động bên những vuông tôm giữa bạt ngàn rừng đước, rừng chàm ven biển. Lòng dân vẫn vậy, mênh mông như biển cả quê hương và lòng tôi man mác buồn vì con đường về vùng quê cách mạng này vẫn còn nhiều gập ghềnh...
Ngồi trong căn nhà mới xây tương đối khang trang của ông Ngô Văn Thum, nguyên chiến sĩ giữ kho của đoàn 962 ở xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau- địa điểm từng tiếp nhận hơn 4.000 tấn vũ khí, nhu yếu phẩm từ những con tàu không số chuyển vào từ miền Bắc, chúng tôi như được sống lại những ngày tháng chiến tranh đã qua. Khi ấy, như bao thanh niên quê gốc ở đây, tròn 17 tuổi Ngô Văn Thum nhập ngũ vào Đoàn 962, được huấn luyện trở thành chiến sĩ và qua chiến đấu một thời gian ngắn được rút về nhận nhiệm vụ trông coi kho vũ khí. Theo hồi tưởng của ông, khi đó vùng này dân ít, ta và địch ở trong thế “cài răng lược”. Trên trời là địch, dưới đất trong những rừng đước mênh mông là thế giới của những người lính được bao bọc, chở che bởi nhân dân. Dân che mắt địch, dân góp phần bảo vệ và chuyên chở vũ khí từ kho tỏa đi những chiến trường, góp phần làm nên những chiến thắng lừng lẫy của quân và dân ta trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước.
Người dân Tân Ân vẫn tự hào về truyền thống cách mạng của mình: Không theo địch, không vượt biên, một lòng trung thành với cách mạng. Dù đến bây giờ, chưa thể so sánh với nhiều địa phương khác về thu nhập, mức sống bình quân, nhưng với cách mạng thì trước sao, sau vậy. Má ông Thum, cụ Nguyễn Thị Thắm, trong thời gian chiến tranh là Trưởng ban “Hội mẹ” (như Hội mẹ chiến sĩ ở nhiều địa phương khác) từng bỏ tiền và vận động các bà má trong thôn góp tiền, góp gạo, góp công sức vượt qua vòng vây của địch để mua gạo, đồ ăn, thuốc men tiếp tế cho bộ đội. Bộ đội Đoàn 962, nhờ có cụ và những bà má khác trong “Hội mẹ” nên đã nhiều lần vượt được những khoảnh khắc khó khăn, do đường dây tiếp tế của các mẹ chưa bao giờ gián đoạn nhờ sự mưu trí, sáng tạo và thậm chí liều lĩnh nữa. Bộ đội bẫy được heo rừng, đánh bắt tôm, cua, hải sản trong rừng-các mẹ chuyển chúng thành tiền và một phần hàng hóa để anh em ổn định cuộc sống…
 |
| Tác giả bài viết trao đổi với các nhân chứng tại ngôi nhà mới của đồng chí Ngô Văn Thum. Ảnh: Đức Nghĩa. |
Không chỉ là sợi dây liên lạc với bộ đội, các má trong “Hội mẹ” còn vận động bà con thực hiện những công việc nguy hiểm khác. Có lần, sau trận càn của địch, chiến sĩ, y tá Bảy Huynh hy sinh mà bộ đội ta trong khi rút về căn cứ không kịp thu gom thi hài liệt sĩ. Biết được thông tin này, má Hai (cụ Nguyễn Thị Thắm) đã vận động các má trong “Hội mẹ” dũng cảm trực diện đấu tranh với địch. Tự nhận Bảy Huynh là thân nhân trong gia đình, bà đã mang thi hài liệt sĩ về nhà mình, tổ chức lễ truy điệu, mai táng. Bà mổ cả heo, làm cơm cúng và mời bà con cô bác đến đưa tiễn anh bộ đội này về nơi an nghỉ cuối cùng.
Dân vùng này hồi đó nghèo lắm, chiến tranh đã trực tiếp ảnh hưởng ghê gớm đến cuộc sống của nhân dân. Tuy vậy, không ai sợ khó khăn, hy sinh, kiên quyết bám trụ lại vùng đất khó khăn này. Ông Ngô Văn Thum kể, do phải giữ bí mật cho cụm kho, cho bộ đội, người dân khi đó nghe theo mệnh lệnh của cách mạng, tự giác chấp hành các quy định: Ban ngày không ra sông đánh bắt cá, không nuôi vịt, chó; nấu cơm ban đêm để tránh máy bay địch phát hiện. Có những lúc cao điểm, nhân dân triệt để thực hiện: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” giống như những người lính trên chiến trường. Trong những khoảnh khắc thiếu đói, người dân sẵn sàng ăn trái mắm, nhường phần cơm gạo ít ỏi cho những chiến sĩ Đoàn 962.
Cụ Nguyễn Thị Thắm mất cách đây 4 năm, khi đó gia đình ông Thum vẫn ở trong căn nhà lợp lá dừa nước ẩm thấp ngay trên mảnh đất ngày xưa. Khi còn sống, dù cuộc sống sau giải phóng gặp vô vàn khó khăn, cụ vẫn luôn động viên các con một lòng thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng. Căn nhà mới cất hiện nay được xây dựng một phần từ tiền giúp đỡ của Ban liên lạc Đoàn 962, phần còn lại, ngoài số tiền tích cóp được, là phần gia đình được người thân, bạn bè hỗ trợ. Ông cười lớn, “bây giờ vẫn chưa trả hết nợ nhưng được thế này cũng là tốt lắm rồi…”.
Dân miền Tây là vậy, ông nói, khi đất nước có giặc thì phải đánh tan giặc rồi thì về làm ăn thôi. Cũng từ suy nghĩ bình dị ấy, sau chiến tranh ông về quê sống với mẹ, tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình mà không quan tâm đến các loại giấy tờ, chứng nhận của đơn vị cũ và cũng không đòi hỏi, không phàn nàn điều gì. Thứ giấy tờ duy nhất ông hiện có và được treo trang trọng trong phòng khách của gia đình là tấm “Giấy khen” của “Quân giải phóng miền Tây Nam Bộ” khen ông khi đó là “Tiểu đội phó” vì “Đã có thành tích: Bình tĩnh, dũng cảm chiến đấu tiêu diệt địch, hoàn thành nhiệm vụ trong trận đánh tàu ngày 14-7-1970 trên sông Rạch Gốc” do đồng chí Bông Văn Dĩa ký. Niềm vui lớn nhất của ông trong suốt những năm qua là hằng năm có những ngày được gặp mặt bạn chiến đấu cũ. Khi ấy, vuốt lại bộ quân phục phẳng phiu chỉnh tề, đến họp và được “vui nổ trời” lúc gặp lại bạn bè xưa, được sống lại không khí những ngày khó khăn ăn trái mắm trong rừng, lội bộ cảnh giới địch để vũ khí, khí tài từ “Hậu phương lớn” miền Bắc xa xôi theo những chuyến tàu không số, vượt khó khăn bão táp, đánh đổi bằng cả xương máu của đồng đội, không lọt vào tay giặc…
Chiến đấu anh dũng, ngoan cường, không ngại hy sinh, một lòng, một dạ trung thành với cách mạng, đồng chí Sáu Tửng, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Ngọc Hiển tiếp nối câu chuyện với chúng tôi: “Những người có công với cách mạng như má Hai và Ngô Văn Thum ở đất này không phải là hiếm. Theo thống kê, Ngọc Hiển hiện nay có đến 300 trường hợp cựu chiến binh tham gia kháng chiến chống Mỹ, sau khi đất nước thống nhất, miền Nam hoàn toàn giải phóng thì về quê làm ăn mà không có hoặc có rất ít những loại giấy tờ theo đúng thủ tục hành chính để chứng minh quãng thời gian trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu… Chúng tôi đã và đang phối hợp với cơ quan chức năng của huyện, tìm hiểu, thẩm tra, giải quyết chế độ chính sách cho từng trường hợp để dù ít nhiều gì, mỗi người cũng có thêm một chút đãi ngộ. Việc này không đơn giản, nhưng với tinh thần của những người lính, chắc chắn trước sau gì chúng tôi cũng sẽ phải làm được”.
Và họ đã làm được thật nhiều việc. Trong những năm qua, những người lính già ở mảnh đất này đã tích cực giúp nhau ổn định cuộc sống, vượt qua khó khăn để thoát nghèo. Đến nay, Hội Cựu chiến binh của huyện, bên cạnh việc tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng chính sách xã hội, sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và sự hỗ trợ của Hội Cựu chiến binh các cấp, còn vận động các hội viên của mình tự nguyện đóng góp để thành lập Quỹ giúp đỡ các hội viên xóa đói, giảm nghèo. Với số tiền gần 500 triệu đồng, nhiều hộ gia đình cựu chiến binh đã được hưởng lợi từ nguồn vốn ưu đãi này. Đồng tiền vốn của quỹ được sử dụng một cách hiệu quả và đáng mừng là đến nay vẫn được duy trì quay vòng ổn định. Với nhiều biện pháp cụ thể, hỗ trợ một cách thiết thực như cho vay vốn để thả tôm giống, đến vụ trả gốc không tính lãi; cho vay để mở rộng vuông tôm; vay để bảo vệ và phát triển rừng đước… đến nay nhiều hộ gia đình hội viên đã cơ bản thoát nghèo.
Tuy vậy, vẫn có những gia đình cựu chiến binh chưa thể thoát nghèo bền vững bởi nhiều lý do. Đối với các trường hợp này, Hội cựu chiến binh huyện lại có những cách giúp đỡ hiệu quả khác như: Hướng dẫn phương pháp làm ăn; trao đổi kinh nghiệm sản xuất ngay tại thực địa; hỗ trợ nhau trong những thời khắc giáp hạt, trong lúc gặp thiên tai hoặc các hộ gia đình cựu chiến binh ăn nên làm ra trực tiếp hỗ trợ giống, vốn, kinh nghiệm sản xuất cho những hộ gia đình còn nghèo… Xoay xở đủ kiểu, áp dụng mọi biện pháp có thể, tận dụng tối đa mọi sự giúp đỡ từ các nguồn nhằm mục đích cuối cùng là các hộ gia đình cựu chiến binh phải đạt được mức sống từ trung bình trở lên. Đó là quyết tâm, là mệnh lệnh từ trái tim, là tâm huyết của những người lính khi đã trở về với cuộc sống mưu sinh thường nhật. Khó, nhưng ráng phải làm bằng được-Sáu Tửng nói, mắt nhìn về phía biển, nơi có cửa Vàm Lũng, nối với hệ thống chằng chịt kênh rạch miền Tây bên sông Rạch Gốc và rừng đước ngập mặn. Rừng vàng, biển vàng của ta đấy-cửa thoát nghèo của người Ngọc Hiển cũng ở đấy nhưng làm thế nào phát huy những ưu thế để làm chuyển biến cơ bản diện mạo vùng đất này đến giờ vẫn là những cái nhìn đầy trăn trở, bối rối…
Rút nén nhang thắp lên bàn thờ cụ Nguyễn Thị Thắm, chúng tôi thành tâm xin được cảm ơn mẹ, cảm ơn những bà má, người dân miền Tây trung kiên, gan dạ một lòng chở che, bao bọc cho những cán bộ, chiến sĩ trên những chuyến tàu không số, những người lính giữ kho vũ khí, những chuyến vỏ lãi, tắc ráng chở vũ khí từ vùng đất này chuyển đến các chiến trường trước đây... Những đóng góp thầm lặng của họ đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Dù còn những khó khăn trước mắt, nhưng chắc chắn, cùng cả nước, mảnh đất tận cùng giàu truyền thống cách mạng này sẽ vững vàng tiến về phía trước.
---------------
Bài 2: Vàm Lũng còn xa ngái
Tuấn Anh-Việt Hà