Đường 13 máu lửa

Chiến trường đường 13, Lai Khê, Chơn Thành, ngược lên An Lộc, năm 1972 dần trở lên nóng bỏng, bởi đường 13 bị Sư đoàn 7 cắt đứt, An Lộc bị cô lập, chỉ còn đường không. Các phân đội trong sư đoàn hăng hái thực hiện xây dựng bằng được các “Đại đội mạnh, Đại đội chiến đấu giỏi”.

Mùa khô sắp hết, trời miền Đông vẫn xanh thắm, không gian ngập tràn nắng và gió. Nhiên và anh em trinh sát không nghỉ, tiếp tục nắm địch. Nhiên báo cáo, đoạn từ Lai Khê lên thị xã Bình Long địa hình tương đối bằng phẳng, trong đó đoạn từ ngã ba Xóm Ruộng tới nam Tân Khai là khu vực “có giá trị nhất”.
Cuối tháng 1 năm 1972, cấp trên chỉ thị: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ bằng được khu vực Tàu Ô, Nam Tân Khai để tạo thời cơ và điều kiện dứt điểm Chi khu Lộc Ninh và tiến công Tiểu khu Bình Long. Nhiệm vụ là “Chốt cứng, chặn đứng, không cho một chiếc xe, một tên địch nào vượt qua trận địa chốt của ta!”. Muốn “chặn đứng phải “chốt cứng”, “chốt chặn kết hợp vận động tiến công”.

Gian nan nắm địch, trinh sát sư đoàn phát hiện từng thủ đoạn điều quân. Địch điều lữ 3 dù từ Tây Nguyên về Sài Gòn; ngày 26 đổ xuống Tân Khai, hình thành ba cụm ở đông và tây đường 13. Chiêu đầu tiên, quân ngụy đổ 2 trung đoàn xuống Tân Khai bằng trực thăng, thực hiện “kiểu nhảy cóc” của quan thầy Mỹ. Một thiết đoàn tăng số 9, vòng qua Tàu Ô, bỏ qua khu chốt, tránh chỗ mạnh, lao lên Tân Khai, làm căn cứ bàn đạp nống lên An Lộc. Nhưng chúng không ngờ, ta có lực lượng lót ổ xung quanh Tân Khai, đó là Trung đoàn 141, Trung đoàn 165… Địch bị đánh phủ đầu, bộ binh bị vây hãm, ta diệt hầu hết các chi đoàn thiết giáp của chiến đoàn 9. Cắt bộ binh với chiến xa, khiến chiêu đầu tiên bị gãy! Công của trinh sát trận này không nhỏ.

Đường 13 qua thị trấn Chơn Thành hôm nay.

Lợi dụng ta thay quân, địch ngay sau đó tiến đánh, chiếm khu cống Ông Tề. Trinh sát ta nắm chắc, báo cáo chỉ huy. Ta điều ngay Trung đoàn 141 từ Tân Khai xuống hỗ trợ 209 giành lại khu vực vừa bị mất, khôi phục thế ban đầu.
Từ ngày 21-6, thế trận ác liệt mới thật sự bắt đầu. Địch tập trung binh lực, hỏa lực, gồm hai trung đoàn bộ binh, một lữ đoàn dù, một thiết đoàn số 3, tiến đánh thẳng vào Tàu Ô, nhằm nhổ bằng được chốt đường 13. Chính diện của đợt tiến công rộng tới một ki-lô-mét. Máy bay, pháo binh, xe tăng gầm rú, đột phá liên tục vào trận địa cả ngày và đêm. Cho đến ngày 23 tháng 6, với chiến thuật vận động tiến công, kết hợp chốt, ta đã bẻ gãy từng đợt tiến đánh của chúng. Không nhổ được chốt, lại bị đánh trả, địch phải lui về phía nam 4km.

Lúc này, phải nói đến việc địch dùng hỏa lực mạnh, gồm pháo, bom, rốc két và cả B52 đánh vào khu chốt. Pháo từ Chơn Thành bắn vào trận địa mỗi ngày 10 vạn viên trước chính diện chỉ rộng 2.000 mét vuông! Máy bay chiến thuật AD-6, A37, xuất kích mỗi ngày 40 lần chiếc! Máy bay B52 trải nhiều BOX bom phá cả ngày đêm, khiến một vùng đất hẹp bị cày xới đảo lộn. Cuộc chiến ở Tàu Ô - Xóm Ruộng lúc này kéo dài hơn hai tháng. Quân đội của tướng Cao Văn Viên đã tung ra hơn một nửa lực lượng cơ động Vùng 4 chiến thuật và một bộ phận lực lượng tổng trù bị chiến lược. Tổng số có tới 10 lần chiếc pháo đài bay B52, 7.500 lần chiếc máy bay chiến thuật ném khoảng 39.300 tấn bom, 4.500 lần chiếc trực thăng vũ trang của Mỹ và hơn 60 khẩu đại bác các loại trực tiếp bắn yểm trợ cho mặt trận này; cùng với những thủ đoạn đánh phá tàn bạo, khi thì dùng đội hình lớn có xe tăng mở đường, khi thì dùng chiến thuật nhảy cóc đổ chụp, khi lại chia thành nhiều hướng chia cắt, hợp vây chốt Tàu Ô. Trinh sát của ta trong bụi đất, trong “rừng mảnh đạn pháo bom”, nắm chắc địch hàng giờ, nhiều đồng đội của các anh đã ngã xuống.

Gian nan vậy, nhưng vẫn không có một tên lính nào, một chiếc xe nào vượt qua khỏi Tàu Ô. Ngược lại, nhiều tiểu đoàn, chi đoàn xe tăng, xe bọc thép bị tổn thất nặng nề, một số trung đoàn, chiến đoàn đã phải lui về phía sau củng cố. Số thương vong của địch mỗi ngày một tăng vọt. Tàu Ô chính là một sự thách đố trớ trêu, một nỗi nhục giày vò tướng tá ngụy. Tướng ngụy Nguyễn Vĩnh Nghi, Sư đoàn trưởng Sư 21 cũng phải thốt lên: “Mặt đất Tàu Ô bị bắn phá còn loang lổ ghê gớm hơn cả hình ảnh mặt trăng, nơi phi hành đoàn Hoa Kỳ đã chụp được. Tôi không hiểu sao cộng sản lại sống được ở đó, để rồi chặn đứng được tất cả các cuộc tiến công!”.

Sau chiêu đầu tiên bất thành, tướng ngụy Lê Văn Tư, chỉ huy phá chốt đổi ngay chiến thuật. Y chủ trương đánh vào phía sau chốt phòng ngự của ta tại Tàu Ô. Chúng thực hiện phân bố rộng đội hình, chặn đường tiếp tế từ phía sau, khiến ta nguy ngập. Mặt khác, phía trước chúng tập trung từng đợt bộ binh xe tăng tập kích ào ạt, liên tục, kéo dài, nhiều hướng. Địch ỷ thế có trực thăng, cơ giới, khả năng cơ động nhanh, tung vào một chiến đoàn biệt động, cùng các chiến đoàn 46, 49, 50. Trong đó chiến đoàn 49 vòng lên Tân Khai, đánh úp sau Trung đoàn 209, gây khó khăn cho ta về tiếp tế. Trinh sát nắm nhanh thủ đoạn địch. Trên động viên anh em thay nhau bám trụ, 209 vẫn chốt vững.

Lần thứ ba, Sư đoàn 25 ngụy tức tối lại đổi chiến thuật, chúng phân tán thành các cụm, dàn đội hình đóng xen kẽ với các chốt của ta, kiềm chế, phá thế liên hoàn mà ta thường yểm trợ cho nhau, chặn phía sau ta lên tiếp ứng. Trinh sát ta bám nắm, nhanh chóng phát hiện ra, chính chúng cũng cần tiếp ứng. Các phân đội triển khai khóa các đường mòn địch tiếp tế ban đêm mà trinh sát ta nắm rõ. Cách đánh phong tỏa các con đường này rất hiệu quả. Bị triệt nguồn cung cấp, địch hoang mang, không chịu được thiếu thốn, phải rút, từ bỏ lối đánh xen kẽ!

Cay cú, lần thứ tư địch tiếp tục thay chiến thuật. Lần này lính Sư đoàn 25 thực hiện thủ đoạn gây căng thẳng thường xuyên trên diện rộng của toàn tuyến phòng ngự. Ban ngày chúng sử dụng hỏa lực bắn bừa bãi. Nhiều xe tăng cùng bộ binh liên tục tổ chức những đợt đột kích hòng chọc thủng tuyến phòng ngự; ban đêm nhiều tốp biệt kích thám báo xâm nhập trận địa khiến bộ đội ta mất ăn mất ngủ, căng thẳng, sức khỏe giảm sút nhanh. Địch tung ngay các nhóm biệt kích kiểm soát khoảng trống giữa các chốt của ta. Trinh sát ta đã phát hiện ra, phân tích đúng hành động của địch. Chỉ huy chuyển đổi phương thức: Chủ động tổ chức bộ đội đón lõng phục kích bên ngoài chốt, phát huy sở trường đánh đêm, chặn địch từ sớm, nhanh chóng kiểm soát khoảng trống giữa các chốt. Yên tâm có lực lượng bên ngoài truy quét thám báo, biệt kích, bộ đội trong các chốt thay nhau nghỉ ngơi để ban ngày thay nhau diệt địch. Lại một thủ đoạn nữa của địch bị thất bại.

Lúc này một số chốt của phía ta tạm thời bị cô lập, chúng gọi B52 đánh phá liên tục ba ngày liền. Dưới mưa bom, các chiến sĩ của Sư đoàn 7 động viên nhau đào hầm, kiên cường trụ vững. Ta đã lường được thủ đoạn mới lần thứ 5 của địch “sau bom là tấn kích”. Đúng như ta dự đoán, hàng chục xe tăng và xe bọc thép, ngớt bom đã xông lên bao vây các chốt. Nhưng chúng không tiến vào tầm bắn hiệu quả của B40, B41 như trước, mà đứng từ xa nã pháo. Những chiếc lô cốt di động này vừa bắn vừa quan sát, phát hiện khá chính xác các hỏa điểm của ta, sau đó chỉ điểm cho pháo tự hành bắn thẳng phá chốt. Chỉ khi nào thấy chốt của ta bị bom, pháo hủy diệt chúng mới cho bộ binh tràn lên. Thủ đoạn mới này của địch đã gây cho ta thương vong khá nhiều. Có đại đội sau một ngày chiến đấu chỉ còn bốn, năm tay súng. Nguy cơ mất chốt có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Trung đoàn 209 vắt óc tìm cách đối phó. Lệnh cho các phân đội tổ chức nghi binh bằng hầm chốt giả, treo mũ sắt nhấp nhô, thấp thoáng trong các chiến hào để lừa địch. Trong khi đó, các chốt thật được cải tạo lại, hạ thấp độ cao ngụy trang khôn khéo, khiến tầm quan sát từ xa trên xe tăng của địch bị mất hút, chốt được lẩn trong những đám cây, mặt ruộng bình thường. Quả nhiên địch bị thu hút hỏa lực mạnh vào các mục tiêu giả, tự chúng bộc lộ lực lượng, đây là cơ hội để các nhóm bắn tỉa của ta diệt chúng chính xác. Các chốt còn tổ chức bộ đội thành nhóm nhỏ thoát ly công sự, đêm tối phục kích xe tăng và bộ binh địch. Cách đánh gần của ta đã gây cho địch hoảng sợ, không còn phân biệt thực hư ra sao. Tự chúng cũng bắt đầu nảy sinh khó khăn do căng thẳng vì bị đánh lẻ. Tuy chưa rút hoàn toàn nhưng lần thứ năm chiến thuật phá chốt bị phá sản.

Con đường13, trước đây đã là “con đường đáng sợ” của các Sư đoàn “Anh cả đỏ”, “Tia chớp nhiệt đới”, “Ky binh bay”, đối với bọn lính Mỹ. Đường 13 là con đường “máu và nước mắt” của bọn lính Sư đoàn số 5 bộ binh ngụy, giờ đây là con đường khủng khiếp nhất đối với tất cả những sư đoàn, lữ đoàn quân ngụy Sài Gòn bị ném vào chiến trường này. Đúng như bài “Thiên anh hùng ca đường 13” đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày ấy đã viết: “Chiến sĩ Quân giải phóng trên đường 13 đã chiến đấu liên tục, bền bỉ dài ngày với một niềm lạc quan cách mạng. Với ý chí và quyết tâm cao, quân và dân miền Đông Nam Bộ anh hùng đã biến con đường này thành con đường sấm sét và máu lửa của Mỹ - ngụy, đã gieo khiếp sợ cho kẻ thù và làm kinh ngạc cả thế giới...”.

Những chiến sĩ trinh sát cùng Đoàn Nhiên tự hào từ những ngày đêm nằm sương, bới đất, nhịn đói chịu khát can trường nắm địch, nào Cà Tum, Bổ Túc (Tây Ninh), Bắc Lai Khê, Tân Phú Trung… đến Sông Bé, Bình Long, nay là đường 13 kiên cường, quả cảm, gắn với lịch sử hào hùng Trung đoàn anh hùng 209, Sư đoàn 7 ngoan cường.

Gần 40 năm, trở về hậu phương, người lính trinh sát Đoàn Nhiên trở thành ông lang, khám, chữa bệnh cho hàng ngàn người. Những vị tướng một thời trận mạc ở Miền Đông như Vũ Việt Hồng, Đàm Ngụy, Nguyễn Thế Bôn, Lê Nam Phong… qua Sóc Sơn, quê anh, vẫn ghé thăm Nhiên, như đồng đội cũ, như ngày nào Nhiên thay mặt trinh sát lên báo cáo kết quả điều nghiên, với giọng nói bình thản, thẳng thắn của người lính trinh sát, không bao giờ nói sai sự thật.

TRẦN DANH BẢNG

Trinh sát Miền Đông (kỳ 1)