Chuẩn bị phá hủy đạn, vật liệu nổ.

Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm, nhưng hậu quả để lại còn hết sức nặng nề. Trên những cánh đồng, thửa ruộng, thậm chí cả dưới lòng đường, nền nhà của người dân Tây Nguyên vẫn còn bom, đạn. Để giúp bà con có đất sản xuất và yên tâm với cuộc sống mới, để các công trình kinh tế, xã hội được xây dựng an toàn, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Hùng Vương (Binh đoàn Tây Nguyên) đã không quản hiểm nguy tìm kiếm, xử lý những “thần chết”, giải phóng hàng trăm héc-ta đất phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ở các địa phương...

Khắc chế “thần chết”

Chiều chủ nhật, trời nóng như rang. Thượng tá Lê Văn Quyên, Đoàn trưởng Đoàn Hùng Vương tiếp khách ngay dưới bóng cây phượng vĩ cổ thụ. Hơi gió từ mặt nước các hồ xung quanh đã điều hòa được tiết trời nắng nóng.

Thân mật như người trong nhà, anh Quyên tâm sự: “Tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị trong tâm trạng vừa mừng, vừa lo. Mừng vì đơn vị có bề dày truyền thống, ba lần được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Lo là làm sao xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ hôm nay phát huy và tô đậm thêm truyền thống ấy. Xin được “khoe” với các anh, trong những năm qua, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Hùng Vương không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, mà còn tham gia rà phá bom mìn, trả lại sự bình yên và màu xanh cho những vùng “đất chết”.

Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị hiện nay hầu hết còn trẻ, chưa qua chiến đấu. Xác định trình độ chuyên môn và tâm lý là hai yếu tố quan trọng, nên ngoài việc huấn luyện các khoa mục của chuyên ngành Công binh về rà phá bom, mìn, từ chiến sĩ trở lên còn được cán bộ kỹ thuật nhiều kinh nghiệm hướng dẫn tại thực địa cách sử dụng kỹ năng sử dụng máy dò bom, mìn như VALOL 1303, MiLat…; cách dùng xẻng, thuốn, cuốc chim để đào, tháo ngòi nổ, gỡ chốt an toàn, đầu đạn.

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp trung đội, thường xuyên gần gũi anh em, tư vấn, giải quyết tốt tâm tư nguyện vọng, định hướng và làm tốt công tác tư tưởng. Làm tốt điều đó, nên những năm qua đơn vị đã tổ chức dò tìm và phá hủy an toàn hơn 70 tấn bom, đạn, vật liệu nổ các loại ở địa bàn của 4 tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông), Dung Quất (Quảng Ngãi), Khu công nghiệp Tuy Phước (Bình Định), Mộc Bài (Tây Ninh), An Giang, Bà Rịa Vũng Tàu, Bản Vẽ (Nghệ An) và giúp đỡ nước bạn Lào…

Tại phân đội 1, chúng tôi gặp Đại úy Lưu Đình Hiệp, Trợ lý Tham mưu. Anh là một trong những cán bộ trực tiếp tìm kiếm, rà phá bom mìn nhiều nhất. Lưu Đình Hiệp tâm sự: “Đơn vị thực hiện nhiệm vụ rà phá bom mìn thường ở những địa bàn rừng núi, sông suối hiểm trở.

Khó khăn và nguy hiểm luôn rình rập vì các loại bom, mìn và vật liệu nổ đã bị hoen gỉ dưới lòng đất quá lâu. Một số loại như mìn định hướng (Cleimo của Mỹ sản xuất) và lựu đạn cài đã bật chốt an toàn, hoặc đầu M79 bắn ra nhưng do lỗi kỹ thuật nên chưa nổ, bom từ trường… Thời tiết thì mưa nắng bất thường. Khi phát hiện, nếu trong thao tác tháo gỡ và tiêu hủy chỉ cần một động tác bất cẩn, sai qui trình thì hậu quả thật khó lường. Do đó, đối với cán bộ, chiến sĩ công binh, thực hiện nhiệm vụ rà phá bom mìn, phương châm “hiệu quả, an toàn” là trên hết”.

Thiếu úy Trần Quốc Lương kể: “Hôm đơn vị dò tìm ở cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum), chúng tôi gỡ được hơn 10 tấn bom, đạn và các loại vật liệu nổ, trong đó có hai quả bom 500 bảng Anh, to và đen trui trũi, chúng chỉ nằm cách mặt đất khoảng 3m. Chỉ huy đơn vị đã phân công các đồng chí nhiều kinh nghiệm nghiên cứu kỹ càng để xác định phương pháp tháo và đã tháo gỡ thành công hai quả bom này. Xác định nhiệm vụ rà phá bom, mìn có tính chất đặc biệt nguy hiểm nên khi vào công việc cụ thể, mọi người đều phải tập trung cao độ. Phải nắm vững nguyên lý hoạt động của các loại bom, mìn và không cho phép một sơ suất nhỏ nào, để bảo đảm an toàn tính mạng cho mình, đồng đội và nhân dân xung quanh khu vực có bom. Vất vả, gian khổ ác liệt là vậy, nhưng chúng tôi lúc nào cũng lạc quan vì mình tin vào trình độ của mình, vì nghĩ tới những vùng “đất chết” đầy bom đạn hôm nay, ngày mai sẽ xanh thắm màu cây trái và các công trình mọc lên...”.

Theo ước tính, trên cả nước hiện còn khoảng 350.000 - 800.000 tấn bom, mìn và các vật liệu nổ từ thời chiến tranh chưa được tháo gỡ, xử lý. Từ năm 1975 đến năm 2000, có 38.849 người bị thiệt mạng và 65.752 người bị thương do bom, mìn và các vật liệu nổ gây ra.

Dò tìm, tháo gỡ bom mìn đã nguy hiểm, nhưng quy trình xử lý hủy, nổ lại càng phức tạp và nguy hiểm hơn. Ở những nơi xa dân cư, địa hình cho phép thì có thể tiến hành kích nổ tại chỗ. Còn những nơi phố xá, vùng dân cư, việc tháo gỡ, vận chuyển bom mìn cùng các loại vật liệu nổ rất phức tạp. Vận chuyển bom, mìn đến nơi phá hủy có khi phải đi đoạn đường hàng chục cây số. Đường xấu, khúc khuỷu, nhiều ổ gà gây lắc, xóc, nếu không làm tốt công tác sắp xếp, bố trí hợp lý rất có thể xảy ra nổ, hậu quả thật khôn lường. Việc sắp xếp các loại bom, đạn, vật liệu nổ và bố trí lượng kích nổ... cũng phải bảo đảm khoa học, thao tác tỉ mỉ, tập trung cao và không được phép có sơ suất. Chỉ khi nào xử lý xong, bãi hủy nổ được thông báo an toàn, lúc này mọi người mới có thể thở phào nhẹ nhõm.

Trả lại màu xanh cho những vùng “đất chết”

Cán bộ, chiến sĩ Đoàn Hùng Vương đã từng có mặt tại nhiều miền đất, cả trên đất bạn Lào để dò tìm và xử lý bom, mìn, vật liệu nổ. Những thôn làng, nương rẫy các anh đi qua, cuộc sống thanh bình của người dân, màu xanh cây trái đã hồi sinh trở lại. Những nhà máy, xí nghiệp mọc lên báo hiệu sự phát triển ngày mai của đất nước.

Thượng tá Nguyễn Như Thảo, Chính ủy Đoàn Hùng Vương tâm sự: “Địa bàn miền Trung-Tây Nguyên trong chiến tranh hứng chịu hàng nghìn tấn bom đạn Mỹ-ngụy. Chỉ tính trong 5 năm trở lại đây cán bộ, chiến sĩ đơn vị đã “làm sạch” được hàng nghìn héc-ta đất. Nhiều công trình kinh tế, xã hội trọng điểm của đất nước đã được đơn vị dò tìm bảo đảm an toàn trước khi khởi công xây dựng. Điển hình như: Cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum); các công trình thủy điện: Ia Ly, An Khê, KNát (Gia Lai); Đồng Nai 3-4 (Đắc Nông); tuyến đường dây 250KW, đoạn đi qua các tỉnh Tây Nguyên; tuyến đường tuần tra biên giới, đoạn Gia Lai-Kon Tum; khu công nghiệp Dung Quất (Quảng Ngãi); khu công nghiệp Tuy Phước (Bình Định); khu kinh tế Át-tô-pư (Lào)... Không những rà phá bom mìn, cán bộ, chiến sĩ đơn vị còn làm tốt công tác dân vận, giúp địa phương thu hoạch lúa, hoa màu, tổ chức những chuyến phà chở nhân dân qua sông khi mưa lũ, khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho bà con...

Chúng tôi đã gặp anh Trần Văn Mai cùng vợ là Nguyễn Thị Liễu ở Cửu An, thị xã An Khê (Gia Lai)-gia đình vừa được bộ đội công binh Hùng Vương xử lý số đạn ở vườn nhà. Anh Mai cho biết: “Trong chiến tranh, Mỹ-ngụy ngày đêm cho máy bay thả bom, bắn pháo, địa bàn này thực sự trở thành một “cái túi” chứa bom đạn...”.

Cán bộ đội kiểm tra liên ngành kiểm tra đầu đạn trước khi phá hủy.
Chỉ về phía vườn nhà, chị Liễu nói: “Hôm trước, trong lúc cuốc đất trồng mì (sắn) vợ chồng tôi phát hiện hai quả đạn pháo và gần chục quả bom bi của Mỹ. Sợ quá, chúng tôi lấp lại và tránh xa không dám làm gần đó. May nhờ mấy chú bộ đội Công binh Đoàn Hùng Vương tháo gỡ và đưa đi phá hủy giùm”.

Theo vợ chồng anh Mai thì bà con ở đây từ người già cho đến con trẻ, ít nhất cũng một lần bắt gặp bom bi, khi thì trên nương rẫy, khi thì ở dưới suối, bên hồ hoặc trên những quả đồi sau một trận mưa. Sau ngày giải phóng, không biết bao nhiêu người chết vì bom đạn của Mỹ-ngụy còn sót lại trong chiến tranh.

Anh chị tâm sự: "Biết là nguy hiểm đến tính mạng nhưng vẫn phải bám trụ ở mảnh đất này để sinh sống. Quê hương mà… Từ nay ở đây sẽ không còn bom đạn. Các chú bộ đội đã mang lại sự bình yên cho nhân dân. Cuộc sống của người dân chúng tôi rồi sẽ đổi khác, không lâu đâu, chỉ vài tháng sau có dịp trở lại, mấy anh sẽ thấy màu xanh cây trái…”.

Chiều nhạt dần, mặt trời đã lui xuống phía dưới đỉnh đèo Mang Yang. Chia tay cán bộ, chiến sĩ Đoàn Hùng Vương với những cái bắt tay siết chặt. Chúng tôi thật sự cảm kích trước những việc làm của các anh trên “mặt trận không tiếng súng” và hiểu rằng, trong sự phát triển của quê hương, đất nước hôm nay có một phần đóng góp công sức và hy sinh thầm lặng của các anh.

Bài và ảnh: LÊ QUANG HỒI