(Tiếp theo và hết)

QĐND - “Chính trị viên Phan Trung Bắc động viên lực lượng vận tải, thông tin, trinh sát: “Đảng viên, đoàn viên hãy lên đưa thương binh tử sĩ ra khỏi trận địa”. Chính anh Bắc, anh Huy trung đội trưởng thông tin đã bị thương khi lên trận địa cứu thương binh xuống. Xạ thủ Phạm Ngọc Thái bị thương lùi về phía sau băng bó xong lại băng lên chiến đấu. B40, B41 lần lượt hạ hết các ụ súng này đến các ụ súng khác, luôn có mặt ở bất cứ chỗ nào cần có mặt. Xạ thủ Trần Đức Chính luôn luôn động viên thương binh “các đồng chí cứ bình tĩnh, chúng tôi sẽ trả thù cho các đồng chí”. Xạ thủ Trực sau khi đã hạ được 3 ụ súng đã ngồi hẳn lên trên xác Mỹ tiếp tục dùng tiểu liên diệt địch; đó là hành động can trường, dũng cảm và tiên phong của những cán bộ đảng viên như chính trị viên Bắc, như Lê Sĩ Nhật luôn xông xáo chỉ huy đơn vị xốc tới, như Nguyễn Văn Kháng một mình đánh địch bảo vệ thương binh diệt hàng chục Mỹ bằng tiểu liên, lựu đạn. Đó là tình yêu thương đồng đội và quyết tâm tiêu diệt địch của các đồng chí phục vụ như y tá Bắc, văn thư Tứ, đưa hết thương binh ra ngoài an toàn rồi quay lại dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch. Tinh thần dũng mãnh của cả một tập thể can trường, biết kết hợp với lối đánh gần, đánh nhanh, đánh thọc sâu của tiểu đoàn 7 như một trận "thư hùng".

"Sinh hoạt đại đội dã ngoại của C1" - một trong ba bức tranh vừa "trở về từ phía bên kia" của họa sĩ Lê Đức Tuấn. 

Càng về sáng, trận đánh càng trở nên ác liệt bởi trong cuộc “đối chọi các tình huống” bên tiểu đoàn 7 thương vong tăng dần. Hơn hai trăm tay súng, một phần ba dùng AK, lựu đạn đánh xáp mặt, nhưng hỏa lực địch bắn quá mạnh, chúng chiếm lại được pháo, dùng pháo đội bắn trực xạ vào đội hình ta. Lúc này “Tiểu đoàn trưởng Trương Ân tung trung đội 9 đại đội 3, là lực lượng dự bị của tiểu đoàn vào trận. Anh lớn giọng động viên những người lính còn lại tiếp tục tiến công địch. Quân ta lớp lớp xung phong, lớp lớp ngã xuống, giành giật từng đoạn hào, ụ súng, giằng co cho tới sáng. Nhưng hỏa lực địch mạnh, ta không dứt điểm được... Những người còn sống hầu hết đều đã bị thương, trong tay tiểu đoàn trưởng cũng không còn lực lượng nên đành ra lệnh rút quân.

Cuốn lịch sử trung đoàn 209 sau này ghi rõ: “Nhiều gương chiến đấu anh dũng đáng được nêu gương học tập như đồng chí Nhạc (Đại đội phó đại đội 1) bị thương lòi ruột, tự tay mình nhét ruột vào để tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu; như đại đội trưởng Ngô Xuân Lâm một mình ôm bộc phá xông lên diệt lô cốt địch cho bộ đội xung phong, rồi sau đó chỉ huy bộ đội chiến đấu liên tục cho đến lúc hy sinh”.

Các cựu binh còn kể lại: Trận này có một trung đội đặc công do anh Lệ, tác chiến tiểu đoàn dẫn đường đánh thọc sâu. Nhưng không ai còn trở về! Còn một trung đội súng phun lửa, không biết ai còn ai mất? Trên đài quan sát M2, trinh sát nhìn thấy quân Mỹ sau đó đã đánh bom suốt gần 3 giờ, thả cả bom xăng để hủy trận địa. Chúng lại cẩu máy ủi lên, làm lại chiến hào, công sự”.

Hai trăm chiến sĩ ngã xuống giữa trận đánh công kiên. Tên các anh, hương hồn các anh tan hòa vào lá xanh, búp non rừng núi cao nguyên bất tận. Cựu chiến binh tiểu đoàn 7 kể, địch ở Chư-tăng-Kra nhiều hơn ta dự đoán, phải là một tiểu đoàn tăng cường, chúng tăng viện trong mấy ngày rất nhanh, mà ta chưa nắm kịp. Địch chở công sự đúc sẵn, kiến trúc trận địa rất chắc, ta chưa lường hết…

Tuy nhiên, nhiều sĩ quan, tướng lĩnh sau này nhận định, trận đánh Mỹ này, mở ra một hướng, ta không chỉ đánh địch vận động bên ngoài đồn bốt , mà ngay cả trong căn cứ vững chắc, buộc Mỹ phải tung quân ra ngoài khu vực sông Sa Thầy, tạo điều kiện cho các đơn vị khác đánh vận động, đánh điểm diệt viện. Tướng Lê Hữu Đức (người vinh dự được tham gia bàn thảo kế hoạch Tổng tiến công nổi dậy 1975) thì cho rằng: “ Chư-tăng-Kra phải gọi đúng là tập kích chiến lược, trận đánh hay nhất của toàn miền Nam đợt 2 năm 1968. Nó đánh bại đơn vị con cưng địch; kết quả của nghệ thuật quân sự và ý chí quyết thắng vượt sự tưởng tượng này đã khiến cho nước Mỹ chấn động, và từ đây bắt đầu bùng nổ phong trào phản chiến.”

Giữa tháng Chín năm 2010, chúng tôi gặp lại đồng đội của những chiến sĩ can trường nằm lại Chư-tăng-Kra: Hồ Đại Đồng, trinh sát pháo; Phạm Văn Chúc, chiến sĩ đại liên đại đội 5; Lê Đình Thanh xạ thủ trung liên… các anh đau đáu nhớ về trận Chư-tăng-Kra. Lực lượng ta và địch ngang nhau về quân số, nhưng Mỹ vẫn hơn hẳn ta về thế địa hình tác chiến ở trên cao, có công sự kiên cố. Địch có không quân (3 thế mạnh cả về hỏa lực, tính cơ động và sức đột kích). Đó là trực thăng vũ trang, máy bay ném bom, C130 bắn liên thanh súng máy Hỏa Diệm Sơn 6 ngàn phát/phút, đạn chiếu sáng, lại còn pháo binh từ các cứ điểm khác…chi viện tối đa. Trận tỉ thí của “lính Hà Nội” thật kiêu hùng. Đánh đến khi trời sáng rõ vẫn còn quần nhau với địch.

Các cựu chiến binh nhắc mãi tiếng kèn đồng lanh lảnh thúc bộ đội xung phong, vượt hỏa lực dày đặc xông lên chiếm các hỏa điểm. Đây là trận đầu tiên bộ đội ta có kèn đồng đốc chiến, và cũng là trận duy nhất trên chiến trường đánh Mỹ ta có kèn đồng thúc quân xung trận. Người lính đốc chiến bằng kèn xung phong ấy là anh Thạc, quê huyện Gia Lâm. Anh ngã xuống lúc nào? đã 42 mùa rừng thay lá, tiếng kèn ấy còn vọng mãi trong ký ức người “hai linh chín”.

Hơn 200 chiến sĩ Hà Nội cùng đồng đội đã nằm lại trên đỉnh Chư-tăng-Kra đổi lấy một tiếu đoàn quân Mỹ. Trận đánh này, các cựu chiến binh “hai linh chín” không thể nào quên… Lịch sử trung đoàn 209, Sư đoàn 7 viết: Trong trận tiến công tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư-tăng-Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt, ta bị thương và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Trận đánh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường, tinh thần chiến đấu gan dạ, không sợ hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn.

Phía Mỹ, binh sĩ của tiểu đoàn 3, trung đoàn 8, sư đoàn 4, quân đội Mỹ cũng thừa nhận tính quyết liệt, tinh thần dũng cảm của người “hai linh chín” tại trận “cao điểm 995” này. Tài liệu tổng kết sau này của sư đoàn 4 Mỹ thừa nhận, lực lượng chủ lực của Việt Cộng đánh rất quyết liệt.

Tài liệu của Thanh Hằng - Bá Kiên, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cho biết, chính thiếu tá Mỹ tên là Robert B. Simpson, khi đó là sĩ quan tác chiến thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 8, sư đoàn 4 (Mỹ), kể về trận đánh này: “Khu vực tác chiến của chúng tôi là một cánh rừng, cây cối mọc um tùm. Khoảng thời gian đó thời tiết ấm áp và ẩm, không có mưa. Vào sáng sớm sương mù dày đặc, hạn chế tầm nhìn chỉ còn 1-2km. Tình báo của chúng tôi phát hiện sự chuyển quân của đối phương từ tây sang đông, xuyên qua khu vực hoạt động của tiểu đoàn. Đơn vị tham chiến với chúng tôi có hai tiểu đoàn của Trung đoàn 209 Bắc Việt, được pháo binh hỗ trợ. Đơn vị này vừa mới vào chiến trường, được trang bị tốt một cách khác thường. Chúng tôi đã tìm thấy mũ sắt, súng phun lửa, lựu đạn CS và đế cối 82mm.

Khoảng 1 giờ 15 phút, ngày 26-3-1968, chúng tôi phát hiện Trung đoàn 209 chuyển quân vây quanh căn cứ. Khoảng 3 giờ 20 phút, chúng tôi nghe tiếng nổ của bộc phá ở phía tây, tây bắc vành đai phòng thủ. Khu vực đóng quân của chúng tôi rung lên bởi những tiếng nổ dữ dội, liên tiếp của tiếng mìn ĐH10, súng B41.

Sau khi chọc thủng lớp rào thép gai vành đai phòng thủ, với hỏa lực dày đặc, các mũi cơ động của Trung đoàn 209 nhanh chóng đánh chiếm các công sự của chúng tôi. Bị đánh quá bất ngờ, chúng tôi không kịp trở tay. Đạn cối 60mm, đạn cối 82mm thi nhau rót vào cao điểm, tiểu liên AK nổ đanh gọn từng loạt ngắn, tiếng đại liên bắn lên như xé tai, lựu đạn lao vun vút về phía chúng tôi.

Tai tôi ù đặc, mắt hoa lên bởi những quầng sáng của súng phun lửa chạy loằng ngoằng. Tôi không thở được vì khói, tôi chỉ cảm nhận thấy quanh mình lửa cháy đỏ rực, khét lẹt. Trong ký ức của tôi mãi mãi không thể quên được đêm hôm đó.

Cuộc giao tranh diễn ra ở đây rất ác liệt. Đại đội D bị thương vong nặng, cơ số đạn gần hết nên buộc chúng tôi phải rút lui về khu công sự pháo binh. Khoảng 4 giờ, chu vi phòng thủ phía nam và trận địa pháo ở vành đai phía tây bị tấn công lần thứ hai. Đơn vị chúng tôi hỗn loạn, tiếng la hét hòa lẫn trong tiếng đạn nổ.

Nửa tiếng sau chúng tôi được chi viện hỏa lực và pháo sáng. Pháo dù bắn lên bốn phía sáng như ban ngày, mìn định hướng Claymore thổi ngược xuống chân núi, pháo bầy tới tấp dập xuống chân núi, máy bay tiêm kích lao xuống cắt bom, máy bay C130 chở súng máy điên cuồng vãi đạn. Đến 6 giờ 30 phút sáng, máy bay trực thăng của chúng tôi đổ thêm quân, tái chiếm cao điểm. Tình báo cho biết những người lính Bắc Việt đã rút.

Theo binh pháp Đông-Tây, “Trong tấn công vào công sự vững chắc, lực lượng tấn công phải lớn hơn bên phòng ngự, cả về quân số và hỏa lực”. Vậy mà tại Chư-tăng-Kra, lực lượng của tiểu đoàn 7, toàn lính Hà Nội tấn công chỉ tương đương quân Mỹ. Một trận thư hùng!

Hào hoa “Lính Hà Nội

 Xạ thủ Lê Thanh, người tiểu đoàn 7 đánh trận Chư-tăng-Kra, sáng 26-3-1968, anh ôm trung liên bắn chát chúa về phía địch, chi viện cho đồng đội, rồi vượt qua yên ngựa thì bị thương. Thanh có biệt danh “Thanh Tây”, vì anh có dáng đẹp trai, trông giống người Âu. Tháng 9 năm nay, trong một ngày gặp gỡ cựu chiến binh ở Hà Nội, “Thanh Tây” có mặt tại Bảo tàng LSQS Việt Nam. Khi vừa vào đến phòng khánh tiết, có một quan chức người Mỹ, thuộc chương trình POW-MIA, giơ tay về phía “Thanh Tây” vồn vã, ông ta nói tiếng Việt sõi không ngờ: “Chào lính mũ sắt! ”, khiến Thanh bất ngờ, kịp ngẩng cao đầu hãnh diện. Thanh bảo: Người Mỹ biết chào "lính mũ sắt” là hiểu “hai linh chín” lắm! Đồng đội Thanh kể, hôm tấn công Chư-Tăng-Kra, đã áp sát hàng rào, ém chờ lệnh, mãi không thấy pháo hiệu tấn công, Thanh gối đầu lên mũ sắt thổi sáo mồm bài “Tôi xa Hà Nội, năm tôi mười tám, khi vừa biết yêu!".  Dịp này, Hà Nội vào lễ trọng, anh đã ngoài sáu mươi.

Một minh chứng về lính “hai linh chín” hào hoa, là sự kiện họa sĩ, chiến sĩ Lê Đức Tuấn, người tham gia chuẩn bị tấn công địch ở Chư-Tăng-Kra. Đồng nghiệp của chúng tôi ghi lại: Trong một lần di chuyển, Lê Đức Tuấn không kịp lấy toàn bộ tư trang, phải để lại trước giờ ra trận, trong đó có cuốn ký hoạ gồm 112 bức. Sau một trận càn của Mỹ nống ra xung quanh Chư-tăng -Kra, tình cờ cuốn ký họa đã lọt vào tay thiếu tá Mỹ R. Simpson, khi đó là sĩ quan tác chiến thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 8, sư đoàn 4 (Mỹ)… rồi cuối cùng cuốn ký họa được vị tướng ba sao lục quân Hoa kỳ là Wiliam R Peers gìn giữ. Sau khi tướng Wiliam R Peers qua đời năm 1984, con gái ông, bà Hicks đã sắp xếp lại kỷ vật của cha và tìm thấy cuốn ký họa vào năm 2002. Sửng sốt trước vẻ đẹp của 109 bức họa, trước tâm hồn trong sáng của người lính Việt Nam, bà Hicks đã tìm cách trả lại nó cho chủ nhân. Nhưng vẫn còn 3 bức họa trong cuốn ký họa trên được Robert B. Simpson giữ suốt hơn 40 năm qua.

Khi biết cuốn ký họa đã được trao cho chủ nhân, Robert B. Simpson đã gửi 3 bức tranh qua ngài Đại sứ Mỹ tại Việt Nam nhờ trao lại họa sĩ Lê Đức Tuấn kèm một bức thư. Cựu binh Robert B. Simpson viết: “Những người lính của bất kỳ bên nào tham chiến cũng đều hiểu rằng, cái đẹp và sự nhạy cảm hình như sẽ nhanh chóng bị bỏ đi trong chiến tranh. Vì vậy, tôi kính trọng ông vì ông là một người lính đã chiến đấu dũng cảm, đồng thời lại là một nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm đẹp trong chiến đấu. Chúc cho tác phẩm nghệ thuật của ông nay đã về lại với ông, sẽ mang lại cảm hứng cho nhiều độc giả có dịp chiêm ngưỡng nó thời gian tới”. Trở về Hà Nội, Lê Đức Tuấn trao súng, tiếp tục làm họa sĩ tại Báo Quân đội nhân dân. Đồng đội của anh Tuấn người thì theo nghề ngoại thương, người làm doanh nghiệp… Lính “hai linh chín” hào hoa thế đấy!

Thủ đô Hà Nội không quên các anh, không quên trận Chư-tăng-Kra. Thượng tướng Nguyễn Thế Trị, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng, (năm 1968 anh là chính trị viên đại đội thuộc tiểu đoàn 8 thuộc “hai linh chín”) cho biết, mới đây Hà Nội và Kon Tum đang phối hợp xây dựng một “Khu tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đã chiến đấu, hy sinh tại Chư-tăng-Kra”.

Nhóm đi tìm đồng đội của tiểu đoàn 7, của “hai linh chín” hai năm qua đã tích cực, bằng nhiều cách tìm, đưa bạn bè của họ về quê. Hàng chục lính trẻ ngày ấy đã được đưa về an nghỉ tại nghĩa trang Hà Nội. Các anh hẹn nhau tháng 11 năm nay lại trở vào Tây Nguyên tiếp tục tìm đồng đội, thắp hương cầu nguyện cho các anh.
Hình ảnh người lính mũ sắt trong trận “một đổi một” năm 1968 tại Tây Nguyên, từ ngày ấy đã khắc tượng đài trong lòng dân Việt.

 Trần Danh Bảng