Tôi bị “xiếc”
Ngày 6 tháng 5 năm 1975, Tổng cục Chính trị cử tôi đi báo với đoàn đại biểu Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Tôi kể rất thoải mái: Trên tầng hai có tấm thảm tròn to có thêu hai con rồng chầu mặt nguyệt rất đẹp, rất sinh động. Tôi cởi dép lốp, đi chân trần trên thảm. Vài phút sau, tôi xách dép đặt sang bên này rồi đi tiếp.
Anh bạn phóng viên Pháp viết bài đăng trên Báo L'Humanité (Nhân đạo) với dòng tít: “Thiết và tấm thảm”. Anh đã ghi lại lời kể của tôi kèm theo lời bình khá đạt: Đồng chí Thiết là phóng viên chiến tranh của Báo QĐND đã xách đôi dép lốp Hồ Chí Minh vạn dặm để đi chân trần qua tấm thảm quý kể từ hôm nay đã vĩnh viễn thuộc về nhân dân Việt Nam.
Tôi “láu cá”
Tên gián điệp Võ Đại Tôn bị bắt. Ở nước ta chỉ có hai phóng viên được Bộ Nội vụ cho tiếp xúc với tên gián điệp. Lúc đó Thành Tín là Phó tổng biên tập Báo Nhân Dân. Sau khi nghe Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh của Bộ Nội vụ báo cáo, tôi tự phân tích và thấy mình có thể thua Thành Tín 4-0.
- Một là Thành Tín thường xuyên đi nước ngoài, nơi Võ Đại Tôn thường lui tới.
- Hai là Thành Tín có ngoại ngữ, đọc được nhiều tư liệu của nước ngoài về đề tài này.
- Ba là Thành Tín thông thuộc địa bàn Sài Gòn, nơi Võ Đại Tôn hoạt động từ nhỏ đến 30 tháng 4 năm 1975.
- Bốn là Báo Nhân Dân có vị trí hơn Báo QĐND nên sẽ đăng ký ngay ngày mai.
Tôi đã từ chối không đi cùng Thành Tín đến gặp Võ Đại Tôn. Tôi xin tiếp xúc với các trinh sát của Bộ Nội vụ đã điều tra vụ án này. Nhờ biết mình, biết người, tôi đã đăng được 10 kỳ ký trên Báo QĐND (Báo Nhân dân đăng 3 kỳ). Bộ Nội vụ và Hội Nhà báo đã tặng tôi giải nhất với phần thưởng là chiếc máy ảnh.
Từ lên voi tôi xuống… xin vợ
Tổng biên tập không ra lệnh mà thăm dò tôi:
- Ông có dự kiến đi đâu ngày mồng Một Tết (1967) này không?
- Từ ngày về Hà Nội (1954) vợ chồng tôi duy trì thói quen đi ngủ từ 22 giờ. Gia đình tôi không đón Giao thừa bao giờ và thích dậy muộn sáng mồng Một Tết.
- Ta và Mỹ cam kết là sẽ ngừng bắn 3 ngày Tết. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sẽ gặp các phi công của ta từ 8 giờ sáng mồng Một Tết ở Sân bay Gia Lâm. Tôi đã cử anh Vũ Ba (phóng viên nhiếp ảnh) đi chụp ảnh. Ông có sẵn sàng đi viết tường thuật không?
- Anh đã dành vinh dự này cho tôi, tôi đâu dám chối từ.
- Ông chuẩn bị sẵn. Xe sẽ đón ông 5 giờ sáng mai.
Tôi vùng dậy lúc 4 giờ 30 phút theo chuông đồng hồ báo thức. Vợ tôi hỏi:
- Em rang cơm cho anh hay bóc bánh chưng?
- Không cần. Chắc là Không quân sẽ mở tiệc chiêu đãi Thủ tướng.
Đúng lúc đó, đồng chí Tình lái xe gõ cửa:
- Ta buộc phải đi sớm, vì em phải về tòa soạn trước khi cắt cầu phao. Thủ trưởng nhắc anh mặc quân phục, đeo đầy đủ huân chương.
Đưa chúng tôi đến sân bay Gia Lâm, Tình chào tạm biệt. Tôi và Vũ Ba không biết mình đi đâu, sẽ làm gì? Chúng tôi sục vào bếp. Không có cái xoong, nồi, cái bát, đôi đũa nào. Chúng tôi đoán là cả tháng qua không có người nào động đến bếp. Tất cả các phòng ở sân bay đều toát lên vẻ lạnh lẽo vì từ lâu không có người ở.
Chúng tôi không biết làm gì. Không có giường, bàn hay ghế để ngả lưng, tôi và Vũ Ba dựa lưng vào tường hy vọng chợp mắt nhưng giấc ngủ không đến. Còn hơn hai giờ nữa Thủ tướng mới có mặt nên chúng tôi kể cho nhau nghe đủ mọi chuyện.
Đúng 7 giờ 30 phút, những chiếc xe buýt chở quân đến. Nhận ra chúng tôi, một đồng chí Đại tá mời chúng tôi lên xe buýt nghỉ tạm. Tôi thăm dò:
- Các anh có mang theo nước không? Tôi khát quá.
- Từ nơi sơ tán, chúng tôi đến thẳng đây nên không mang theo bất cứ thứ gì.
Chúng tôi không lên xe. Vũ Ba tranh thủ chụp ảnh, tôi ghi cảm tưởng và thành tích các phi công.
Đúng giờ hẹn, trực thăng đưa Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng hai cháu Ái Xuân, Ái Vân đến. Hai cháu rất xinh, nhí nhảnh hát tặng các chú bộ đội nhiều bài. Khoảng 10 giờ sáng, Thủ tướng hỏi chúng tôi:
- Các cậu có lên Nội Bài được không? Các phi công đã hạ máy bay Mỹ đều ở sân bay.
Chúng tôi thích thú nhận lời. Chúng tôi “lên voi” vì được ngồi trực thăng cùng với Thủ tướng. Đồng chí Tư lệnh không quân nói với tôi khi kim đồng hồ chỉ 11 giờ 30 phút:
- Chúng tôi đã điều trực thăng đưa hai nhà báo về sân bay Bạch Mai vì máy bay của “Cụ” về thẳng dinh Thủ tướng.
Chúng tôi hài lòng, đồng ý với chủ nhà. Nếu đưa chúng tôi về Gia Lâm, chúng tôi không có cách nào về Hà Nội vì cầu phao đã bị cắt. Gần 1 giờ trưa, chúng tôi có mặt ở Bạch Mai. Hai anh em quyết định đi bộ về nhà. Thời đó không có điện thoại di động và xe ôm nên chúng tôi không có cách giải quyết nào khác. Diện lễ phục, chúng tôi không thể cất mũ kê-pi, tháo giày đen nên cứ phải đeo toàn bộ huy chương đi diễu qua các phố. Đến Bệnh viện Bạch Mai, Vũ Ba hỏi tôi:
- Anh Thiết! Anh có mang theo tiền không?
- Để làm gì?
- Tôi đói quá, bủn rủn cả tay chân. Chắc trong nhà thương có bán phở không người lái (không có thịt).
- Mình không có một xu dính túi.
Chúng tôi bảo nhau sải bước thật hùng dũng, giữ vững tư thế sĩ quan nhưng không được vì quá đói, quá mệt. Mãi 14 giờ 40 phút, tôi mới lê được về nhà. Tôi rủ Vũ Ba:
- Cậu vào nhà tớ chén bánh chưng rồi hãy về.
- Chúng ta chia tay nhau thôi vì ăn xong tôi sẽ lăn ra ngủ.
Tôi gõ cửa. Câu đầu tiên tôi nói với vợ giữa ngày Tết:
- Có gì ăn không? Anh đói quá.
- Sao anh bảo sẽ được dự tiệc cùng Thủ tướng?
- Một hụm nước cũng không có. Họ sơ tán nên không đãi khách được.
Vợ tôi đã bóc xong bánh chưng. Tôi trút bỏ quân phục, tháo giày, mặc quần đùi áo cộc ngồi ăn rất ngon.
Nghe kể chuyện tôi “lên voi” rồi xuống… xin vợ, vợ và các con tôi cùng cười bình phẩm:
- Bố không uống bia, rượu, cà phê và hút thuốc nên trong ví của bố không bao giờ có tiền. Nếu mẹ đưa tiền cho bố đi ăn phở không người lái, chắc không xảy ra tình trạng này.
- Dù sao, bố cũng có kỷ niệm vui, độc đáo trong ngày Tết.
Tôi xin ăn
4 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 3 cách Sài Gòn hơn 50 cây số. Chúng tôi bóc phong lương khô cao cấp (có sô-cô-la và ruốc) chia cho mỗi người một thanh.
12 giờ 12 phút, chúng tôi đến Dinh Độc Lập. Nhờ có giấy giới thiệu do Đại tướng Hoàng Văn Thái ký và cấp Thiếu tá, tôi được hỏi cung toàn bộ các thành viên trong nội các Dương Văn Minh. Khoảng 18 giờ, tôi sục vào các phòng ở Tòa Đại sứ Mỹ. Chừng 19 giờ, tôi ra đường. Đồng bào nô nức chen chúc nhau, gần một giờ sau tôi mới quay lại Dinh Độc Lập. Tôi xoa vào bụng lép kẹp: Đói quá! Từ 18 giờ ngày 29-4-1975 cho đến lúc này, tôi chỉ có thanh lương khô nhỉnh hơn hai ngón tay. Đói quá. Liệu có gì ăn lúc này không? Đang đói, nghĩ đến ăn càng đói cồn cào.
Nhìn thấy những người mặc quần áo bộ đội ta, tôi sà đến.
- Các cậu ơi! Có còn lương khô cho tớ xin một một phong.
- Hết nhẵn rồi.
- Các cậu thương tớ vì từ sáng đến giờ tớ chưa có gì vào bụng.
Vì mất điện anh em không nhìn thấy tôi đã là ông già 46 tuổi nên chả có ai ra đón khách. Tôi hỏi thêm:
- Chiều nay các cậu ăn gì?
- Ăn cơm.
- Tốt quá! Các cậu làm ơn, làm phúc cho tớ bát cơm nguội.
- Làm gì còn cơm nguội. Chỉ có cháy đen dính nồi bọn tớ không nuốt nổi nên mới còn.
- Các cậu cho tớ gặm cháy đen cũng được.
- Ông tướng ơi! Cháy đen vừa đắng, vừa khét, không tài nào gặm nổi đâu.
Tôi hồ hởi.
- Dù sao cũng có chất gì đó để đánh lừa cái dạ dày. Tớ lấy cháy ở đâu?
- Nồi ở bên gốc cây. Ruốc B (loại ruốc mặn chát pha 9 phần muối 1 phần thịt) cạnh đó.
Theo lời chỉ dẫn, tôi mở vung. Quả là cháy quá đen nhưng không còn cách nào. Không có thìa hay đũa, tôi ngồi bệt xuống đất, sai “5 quân” bốc. Khi bụng đã lưng lửng, tôi tự giới thiệu:
- Các cậu ơi! Đây là kỷ niệm rất đẹp trong ngày giải phóng của dân tộc, tớ muốn khai lý lịch để các cậu nhớ là đã đón ai. Tớ là phóng viên Báo Quân đội nhân dân, cấp Thiếu tá, tên là Nguyễn Trần Thiết, mới hỏi cung toàn bộ các thành viên trong nội các Dương Văn Minh.
Các chiến sĩ òa lên cùng chạy đến quanh tôi, cùng tranh nhau nói.
- Em xin lỗi Thủ trưởng. Em tưởng có thằng lính nào lạc đơn vị đến xin ăn.
- Thủ trưởng chắc rất rõ là Trung đoàn em chỉ có một thiếu tá, hai đại úy chỉ huy.
- Thưa bác, cháu là độc giả trung thành nhất của bác, ai ngờ cháu gặp được tác giả. Cháu rất khâm phục bác.
- Thưa bác, cháu là anh nuôi. Nếu bác cần ăn cơm hay ăn cháo, cháu xin 15 phút để phục vụ chu đáo.
Một thanh niên trạc 25 tuổi mà tôi đoán là cán bộ Đại đội nói:
- Đứng gần Thủ trưởng em đoán thủ trưởng đã ngũ tuần. Thủ trưởng cần gì chúng em xin phục vụ chu đáo.
- Mình có yêu cầu muốn về Quân đoàn 3 (Củ Chi).
*
* *
Cho đến nay, tôi đã có 57 tuổi nghề. Tuy đã về hưu được 21 năm, nhưng tôi vẫn sung sức, vẫn bảo đảm trung bình tuần nào cũng có bài đăng trên 1 trong 81 tờ báo mà tôi là cộng tác viên. Tôi đã và sẽ viết báo, nghề mà tôi gắn bó cả đời mình.
Đại tá NGUYỄN TRẦN THIẾT
Tôi vào nghề viết báo (kỳ 1)