QĐND - Sau chiến tranh, hầu hết những người lính đều trở về với đời thường, nhưng trong tâm khảm của họ đều canh cánh nỗi niềm đồng đội. Ai cũng muốn tìm nhau để sống thì thăm, chết thì viếng. Nhưng rồi chuyện áo cơm, không phải ai cũng có điều kiện tìm lại nhau dù chỉ một lần trong chặng cuối đời… Vì vậy, mỗi lần gặp mặt truyền thống các nữ chiến sĩ Tiểu đoàn Trưng Trắc (thuộc Bộ đội Trường Sơn) lại như chim hội đàn ...

Nhớ lại những ngày gian khổ

Giữa “rừng” màu xanh quân phục của các cựu chiến binh, những cô gái trẻ nổi tiếng Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc năm xưa, màu tóc nay đã phôi pha theo thời gian. Có nhiều người giờ đã lên chức bà nhưng nhìn họ vẫn trẻ trung, đầy chất lính. Như một duyên nợ, mỗi cuộc gặp mặt lại là một dịp để những người lính từng chiến đấu trên tuyến chi viện chiến lược đường Trường Sơn sống lại những kỷ niệm khó quên của những năm tháng chiến tranh ác liệt. Trong tâm thức thế hệ trẻ hôm nay, các mẹ, các bác, các chị là nhân chứng sống, tươi rói về huyền thoại Trường Sơn. Những kỷ vật: Gậy chống, trang phục áo sợi, giày vải, màn trùm đầu, tăng, võng, đèn pin, kim chỉ khâu, mũ tai bèo… đã gợi lại không khí một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ”.

Lần giở những trang ký ức, những người lính kể cho tôi nghe về một miền lịch sử oai hùng. Cách đây hơn 40 năm, giữa những ngày cả nước ra trận, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Tiểu đoàn nữ bộ đội Trưng Trắc được thành lập. Với tinh thần tuổi trẻ “Ba sẵn sàng”, những người con gái tuổi mười tám đôi mươi sục sôi ý chí cách mạng, hăng hái gia nhập lực lượng vũ trang đánh giặc cứu nước. Theo hồi ký của Đại tá Nguyễn Ngọc Diệp, nguyên Chính ủy Tỉnh đội Hà Tây cũ (năm 1971), quá trình hình thành, huấn luyện và lên đường vào chiến trường miền Nam của Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc diễn ra thật khẩn trương: “Đầu năm 1971, Bộ tư lệnh Quân khu 3 chính thức thông báo cho Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tây (cũ): Theo lệnh của Bộ Quốc phòng, tỉnh Hà Tây thành lập một tiểu đoàn nữ chiến sĩ tình nguyện sẵn sàng lên đường chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”.

Cựu chiến binh Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc trò chuyện tâm tình trong những lần gặp mặt.

Công tác khám tuyển được tiến hành khẩn trương. Những người con gái ngày nào còn lam lũ trên cánh đồng, còn là những nữ sinh trung học phổ thông đã được thỏa ước nguyện vào bộ đội. Hơn 500 chị thuộc các huyện, thị xã của tỉnh Hà Tây (cũ), đủ tiêu chuẩn qua cuộc tuyển chọn đã có lệnh nhập ngũ ngày 25-5-1971. Vào ngày 5-6-1971, trên khắp các ngả đường thuộc tỉnh Hà Tây, dòng người nô nức đổ về xã Hòa Thạch, huyện Quốc Oai để “Hội quân”. Trong lễ ra mắt, Tiểu đoàn vinh dự được mang tên vị nữ vương anh hùng của dân tộc-Tiểu đoàn Trưng Trắc. Trường Sơn- đường Hồ Chí Minh đã trở thành điểm hẹn lịch sử. 5 năm (1971-1975) trên tuyến đường huyền thoại, 500 nữ chiến sĩ được phân về các đơn vị, với những nhiệm vụ cấp bách như mở đường, bảo đảm giao thông, y tá, hậu cần, bảo mật…

Chị Nguyễn Thị Mão (Đông La, Hoài Đức) còn nhớ như in ngày đầu tiên đến đường Trường Sơn: “Đêm đầu tiên, nghe tiếng bom đạn rùng rợn vang cả núi rừng không sao ngủ được, nhiều người thao thức, nước mắt chảy dài. Ai cũng biết chắc rằng, phía trước cái sự sống và cái chết cách nhau chỉ là gang tấc. Nhưng rồi những cái nắm tay thật chặt, tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc cháy bỏng trong tim, chúng tôi lại vững tâm đi tiếp, hẹn lập nhiều chiến công, hẹn ngày chiến thắng trở về”.

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng ký ức về năm tháng ấy không thể nào quên, trở thành một phần máu thịt trong mỗi người chiến sĩ. Chị Đồng Thị Mai, Trưởng ban liên lạc Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc hồi tưởng lại những ngày ở chiến trường: “Những ngày đầu mới vào chiến trường, hầu hết chị em chưa quen cuộc sống khắc nghiệt của vùng rừng núi, mùa mưa lầy lội, ẩm ướt, muỗi, đỉa, vắt… như trấu. Môi trường sinh hoạt thay đổi, không có bồ kết gội đầu, lược mau để chải vì thế chấy nở đầy đầu chị em. Mỗi buổi trưa, các nữ chiến sĩ xếp hàng dài, ngồi bắt chấy cho nhau. Nhiều chiến sĩ bị rụng tóc, những gương mặt hồng hào không còn nữa, da dẻ chị em đều tái xám, thâm lại. Nhiều người bị sốt rét, tê phù. Ngày đó, sốt rét là nỗi ám ảnh kinh hoàng của bộ đội. Bởi căn bệnh này có lúc đe dọa xóa sạch phiên hiệu một tiểu đoàn”.

Dẫu sự tàn phá của bom đạn kẻ thù vô cùng khốc liệt nhưng các chiến sĩ của Tiểu đoàn Trưng Trắc vẫn bền bỉ vượt bao gian nan thử thách, cống hiến và hy sinh, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Trăm mảnh đời thường

Trở về với cuộc sống thường nhật, Tiểu đoàn Trưng Trắc năm xưa lại hòa mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Có nhiều chị đảm nhận những chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở cơ quan ban ngành của tỉnh, quận, huyện; có chị là những nhà quản lý giỏi, những doanh nhân, cán bộ khoa học, kỹ sư, thầy thuốc, cô giáo; là những người vợ hiền, mẹ đảm. Nhiều người dám nghĩ, dám làm trong phát triển kinh tế gia đình, tổ chức kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, làm trang trại, tổ hợp sản xuất, khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống. Có những bà, những mẹ, những chị tham gia vào hoạt động sản xuất trên đồng ruộng, nhà máy xí nghiệp… Điển hình như chị Đông Thị Mai, nguyên Điều dưỡng Trưởng khoa Ngoại, Bệnh viện Y học cổ truyền Hà Tây; chị Nguyễn Thị Thịnh, nguyên Chủ tịch UBND huyện Mỹ Đức, chị Ngô Thị Tuyết, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Hoài Đức, chị Ngô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Bóng đèn-Phích nước Rạng Đông… Họ - những người con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu dù ở cương vị nào cũng vẫn luôn sáng mãi phẩm chất của người chiến sĩ Trường Sơn.

Nhưng nhìn lại vết thời gian, chúng ta biết chiến tranh đã lùi xa gần 40 năm, nhiều người đã đi gần tới chặng cuối cuộc đời, vậy mà di chứng của nó thì vẫn còn đọng lại với nỗi đau âm thầm, hằng ngày vẫn hiện hình trong cuộc sống của các bà, các mẹ, các chị. Trăm mảnh đời, trăm nẻo sống, bộn bề những lo toan. Nhiều chị gửi lại tuổi xuân ở chiến trường, trở về sau chiến tranh đã quá lứa lỡ thì, cho tới khi bóng chiều đổ xuống mà chưa một lần được hưởng hạnh phúc lứa đôi. Cũng có chị tự nguyện làm người bạn đời của thương binh nặng để tiếp tục tri ân đồng đội. Có chị làm vợ của người đàn ông đã “đứt gánh giữa đường”. Có người đến nay vẫn mong mỏi một lần được làm mẹ. Thậm chí, nhiều người lập gia đình, nhưng rồi cũng đành ngậm ngùi chia tay, bởi chất độc da cam đã ngấm sâu vào từng tế bào trên cơ thể, di chứng sang cả những đứa con ngây dại. “Nỗi đau da cam” vẫn hằng ngày, hằng giờ hành hạ thân thể của những cô gái Trường Sơn năm xưa…

Viết tiếp bản hùng ca

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đi qua gần 40 năm, và cũng từng đó năm, dân tộc ta trải qua chặng đường xây dựng và chấn hưng đất nước. Cũng như hàng triệu người con yêu quý của Tổ quốc, khi đất nước có chiến tranh, họ lên đường ra trận, khi hòa bình, họ trở về xây dựng quê hương. Trên cương vị mới, trong hoàn cảnh mới của đất nước, các nữ chiến sĩ Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc lại hòa mình vào công cuộc xây dựng. Chính họ những nữ chiến sĩ năm xưa đã viết nên khúc tráng ca Trường Sơn bất tử. Ngày nay, họ lại tiếp tục vượt mọi gian nan vất vả trong cuộc sống, nêu cao tinh thần đồng chí, đồng đội, đoàn kết, nghĩa tình thủy chung, để cùng các thế hệ con cháu Bà Trưng, Bà Triệu hôm nay viết tiếp những trang sử mới trên quê hương, đất nước.

Mỗi người lính, khi ở trong mưa bom bão đạn, họ cảm thấy cuộc đời đẹp nhất trên trận tuyến đánh quân thù, còn khi trở lại với cuộc sống đời thường, nghĩa tình đồng đội là điều cháy bỏng nhất trong trái tim mỗi người. Đồng vọng với nỗi lòng ấy, chị Ngô Thị Tuyết, Phó chủ tịch Hội Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội, Phó ban Thường trực Ban liên lạc Tiểu đoàn Trưng Trắc, luôn trăn trở về hoàn cảnh đồng đội mình: “Gần 500 chiến sĩ đều chiến đấu trong vùng bị địch rải chất độc da cam. Nhiều chị sau khi về quê không lập gia đình, có hoàn cảnh rất khó khăn. Do chịu ảnh hưởng của chất độc da cam, nhiều chị bị ung thư và các di chứng khác, ốm đau liên tục. Các con cháu cũng bị ảnh hưởng từ bà, từ mẹ nên sức khỏe kém, một số còn dị tật”. Trước hoàn cảnh ấy, nghĩa tình đồng đội thôi thúc chị cùng nhiều đồng chí khác, tìm mọi cách vận động các tập thể, cá nhân đóng góp gây “Quỹ Tri ân đồng đội”, giúp đỡ hoạt động tình nghĩa, nâng đỡ tinh thần và vật chất cho những người không may mắn bằng mình.

Hằng năm, cứ vào các dịp lễ tết, Ban liên lạc Tiểu đoàn đều tổ chức các chuyến thăm, tặng quà cho chị em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, có người thân bị nhiễm chất độc da cam, ốm đau kéo dài; trao tặng 6 suất học bổng Vừ A Dính cho con các nữ chiến sĩ đã vượt khó khăn đạt thành tích xuất sắc trong học tập; tìm biện pháp giải quyết chế độ chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam cho những chị chưa được hưởng; hỗ trợ, xây dựng nhà tình nghĩa...

Bên cạnh đó, việc tìm lại mộ liệt sĩ, tìm lại những người bạn còn nằm lại giữa đại ngàn Trường Sơn để đưa họ trở về với đất mẹ quê hương cũng là việc làm thắm đượm nghĩa tình đồng đội của Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc.

Độc lập tự do của Tổ quốc là vô giá. Sự hy sinh to lớn của các chị và những người lính Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không gì đong đếm nổi. Các chị, các anh đã cống hiến, hy sinh cho đất nước “nở hoa độc lập, kết quả tự do”. Điều giản dị mà cao cả đó luôn nhắc nhở chúng ta hôm nay sống sao cho xứng đáng với quá khứ của cha anh, quá khứ rất đỗi hào hùng, oanh liệt và đã trở thành huyền thoại Việt Nam.

Bài và ảnh: VŨ DUNG