Trong vòng 5 tháng qua, giá cao su thiên nhiên tăng mạnh, giúp cho ngành cao su Việt Nam có nhiều thị trường tiêu thụ ổn định và phát triển về lâu dài. Hiện nay, Việt Nam là nước sản xuất cao su đứng thứ 6 và xuất khẩu đứng thứ 4 trên thế giới, với kim ngạch xuất khẩu năm qua đạt 1,3 tỷ USD. Sản phẩm cao su Việt Nam đã có mặt ở hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chúng ta phải tiếp tục tăng sản lượng, nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu Cao su Việt Nam.
Mở rộng diện tích cao su
Cuối tháng 11-2006, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra Hội nghị cao su thiên nhiên thế giới. Đại biểu đến từ các Viện cao su và các tổ chức phát triển cao su của 16 nước rất quan tâm đến vấn đề: Làm sao để gia tăng sản lượng cao? Ông Hidde P Smit, Tổng thư ký nghiên cứu cao su thế giới IRSG cho rằng, giá cao su thiên nhiên đã tăng đúng như dự đoán, với sức tiêu thụ khoảng 8 triệu tấn trong năm 2006. Dự kiến đến năm 2020, con số này sẽ tăng lên 13 triệu tấn.
Xét về mặt địa lý, khí hậu, Việt Nam là nước có nhiều điều kiện thích hợp để trồng cây cao su. Những năm qua, diện tích cao su ở nước ta đã phát triển mạnh từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ ra đến Nghệ An. Cây cao su đã giúp người dân “xóa đói, giảm nghèo” và bây giờ là làm giàu. Theo số liệu từ Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), diện tích cây cao su năm 2006 tăng lên 495.000 ha với sản lượng 560 nghìn tấn. Nhiều địa phương đã đưa các giống cao su năng suất cao vào trồng thay thế các loại cây hiệu quả kém. Theo đề án phát triển khu miền tây Nghệ An, từ nay đến năm 2010, nơi đây sẽ đưa diện tích cây cao su lên 7000 ha, vừa để phủ xanh đất trống, đồi trọc, vừa giúp nhân dân “xóa đói, giảm nghèo”. Cũng với chủ trương này, nhiều công ty cao su trên địa bàn Tây Nguyên, tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai…đang chủ trương mở rộng diện tích trồng cao su, trên cơ sở tuyển chọn giống tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu của mình, đưa những tiến bộ về khoa học-kỹ thuật để chăm sóc và chế biến cao su đạt năng suất, chất lượng cao nhất.
Theo lãnh đạo của VRG, ngoài việc phát triển cao su quốc doanh, VRG sẽ nghiên cứu, tạo điều kiện giúp các hộ dân trồng cao su tiểu điền về kỹ thuật giống, chăm sóc để nâng cao sản lượng cao su trong những năm tới. Hiện nay, các địa phương đang nghiên cứu để thành lập Liên minh HTX Cao su tiểu điền, nhằm tập hợp, qui hoạch các hộ trồng cao su nhỏ lẻ vào một tổ chức, giúp họ tiếp cận với kỹ thuật tiên tiến trong trồng trọt và chế biến cao su.
Năm qua, bước đột phá của ngành cao su Việt Nam là mở rộng diện tích trồng cao su ra nước ngoài, trên cơ sở hợp tác với hai nước bạn Lào và Cam-pu-chia. Ông Lê Quang Thung, Tổng giám đốc VRG cho biết: “Việc phát triển cây cao su sang Lào và Cam-pu-chia là một chủ trương đúng đắn của chúng tôi. Đây không chỉ là hoạt động kinh tế quốc tế, mà còn góp phần gắn kết hơn nữa tình đoàn kết, hợp tác hiệu quả của 3 nước Đông Dương”. Công ty cổ phần cao su Việt-Lào nằm ở huyện Bachiang, tỉnh Champasak. Từ tháng 7-2005 đến nay, công ty này đã trồng mới được hơn 8000 ha cao su. Trong 4 năm nữa, Công ty CPCS Việt-Lào sẽ hoàn thành dự án trồng cao su giai đoạn II với diện tích 20.000 ha. Dự án phát triển cao su ở Cam-pu-chia có khó khăn hơn, vì thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể trong triển khai dự án; một số diện tích đất không phù hợp để trồng cao su; chưa thống nhất về giá cả hợp đồng trong dịch vụ tư vấn; tổ chức nhân sự chưa thực sự rõ ràng; cơ sở hạ tầng kém…Tuy nhiên, VRG sẽ cùng với phía bạn xem xét, giải quyết trong thời gian tới.
Nâng cao chất lượng xuất khẩu
Cuối năm 2006 và đặc biệt là tháng đầu năm 2007, tình hình xuất khẩu cao su của Việt Nam đều tăng về số lượng và giá cả. Cao su CV60 của SVR đã xuất sang 12 thị trường với giá trung bình đạt 1.903 USD/tấn, tăng thêm 2 thị trường và tăng 51 USD/tấn so với cuối năm 2006. Theo số liệu từ VRG, loại cao su SVR60 đang được giá nhất ở thị trường CHLB Đức và Nhật Bản (2.143 USD/tấn).
Việt Nam hiện là nhà xuất khẩu cao su lớn nhất vào thị trường Nga. Hằng năm, lượng cao su của Việt Nam xuất sang Nga, chiếm 2/3 tổng lượng nhập khẩu cao su của nước này. Chỉ tính riêng 9 tháng năm 2006, chúng ta đã xuất sang Nga 15.304 tấn, đạt 32.846.300 USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, lãnh đạo của VRG cho biết, con số trên chưa xứng với tiềm năng thị trường của Nga. Nếu chúng ta làm công tác tiếp thị tốt, thì có thể xuất sang Nga từ 30 đến 40 nghìn tấn mỗi năm. Thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam trên thế giới là Trung Quốc. 9 tháng của năm ngoái, nước ta đã xuất sang Trung Quốc 339 nghìn tấn, chiếm 67,5% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Từ đầu tháng 11-2006, giá và lượng mủ cao su xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng mạnh. Sản lượng cao su thiên nhiên xuất khẩu qua cửa chính ngạch và tiểu ngạch lên khoảng 1.600 tấn/ngày, với giá từ 14.500 đến 14.700 NDT/tấn.
Ông Nguyễn Thành Châu, Giám đốc Công ty cao su Đồng Nai cho biết: “Mặc dù sản lượng luôn được nâng cao, nhưng công ty chúng tôi không đủ cao su để xuất khẩu theo nhu cầu của thị trường”. Tuy nhiên, các chuyên gia xuất khẩu khuyến cáo các doanh nghiệp Việt Nam, cần điều tiết tốt lượng xuất khẩu, để tránh tình trạng khi mùa khai thác thì xuất ồ ạt, còn khi chăm sóc lại giảm đi, ảnh hưởng đến nhu cầu của thị trường và giá cả, đồng thời cũng tránh rủi ro vì những biến động của thị trường. Tuy giá cao su của Việt Nam được giá, nhưng so với Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, chúng ta không tác động nhiều đến cung-cầu cao su thiên nhiên trên thị trường thế giới, vì thế mà không chủ động được giá cả và phải phụ thuộc vào biến động của thị trường.
Lợi thế của Việt Nam bây giờ là được 3 nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới nêu trên mời gia nhập tổ chức xuất khẩu cao su thế giới (IRCO), để cùng hợp tác giữ bình ổn giá cao su trên thị trường. Đây là điều kiện tốt cho chúng ta, vì IRCO đang chiếm 75% tổng sản lượng cao su tự nhiên thế giới. Khi có sự tham gia của Việt Nam, IRCO sẽ tăng lên 80%.
Cần xây dựng thương hiệu cao su Việt Nam
Với vị thế là thành viên của WTO và những điều kiện sẵn có, ngành cao su Việt Nam cần phải xây dựng chính thương hiệu của mình. Vì hiện VRG có 70% tổng sản lượng cao su xuất khẩu của cả nước, nhưng phải gắn với một thương hiệu của nước khác mới xuất được. Nhiều loại sản phẩm của các đơn vị trực thuộc VRG như Dầu Tiếng, Đồng Nai, Bình Long, Phước Hòa, Tây Ninh…đã tạo được dấu ấn cho bạn hàng trong và ngoài nước, nhưng đó chỉ là thương hiệu riêng của họ.
Rõ ràng, việc tạo thương hiệu đơn lẻ như trên, sẽ không phát huy hết sức mạnh của một quốc gia xuất khẩu cao su đứng thứ 4 trên thế giới. Và việc tạo ra thương hiệu cho cao su Việt Nam là một vấn đề cấp bách. Ông Lê Văn Khoa, Giám đốc Công ty Dầu Tiếng cho rằng: “Lãnh đạo ngành cần kiến nghị với Bộ Thương mại và các cơ quan hữu quan, thành lập một cơ quan chuyên trách theo dõi, kiểm định và chứng nhận chất lượng cao su Việt Nam”. Nhiều ý kiến cho rằng, cũng cần qui định các đơn vị khác khi liên doanh với VRG xuất khẩu sản phẩm cao su, phải đóng thương hiệu VRG để tránh tổn hại đến uy tín và thương hiệu của cao su Việt Nam
Theo Tổng Giám đốc Lê Quang Thung, đến năm 2020, VRG sẽ phấn đấu đạt 500.000 ha trồng cao su, phấn đấu đến năm 2010 sẽ trồng được 20.000 ha cao su ở Lào và Cam-pu-chia. Đó cũng là những điều kiện để hoàn thành các mục tiêu xuất khẩu mà VRG đang hướng tới.
LÊ PHI HÙNG