Bài 1: Cháy lòng mong những “bóng hồng”

QĐND - Nơi anh đến là biển xa, nơi anh tới ngoài đảo xa... Mảnh đất quê ta giữa đại dương mang tình thương quê nhà...

Dù đã được nghe, xem và đọc hàng nghìn bài viết về bộ đội đảo xa, nhưng lần đầu tiên ra thăm Trường Sa và nhà giàn DK1, tôi vẫn rất ngỡ ngàng trước bao điều mới lạ. Từ buổi ra nơi đầu sóng, tôi “nghiện” bài hát “Nơi đảo xa” của nhạc sĩ Thế Song và mỗi khi gặp chuyện buồn phiền, khó khăn, tôi lại nghĩ về những đồng đội đang sống đẹp giữa trùng khơi gian khó.

Lần đầu ra biển... ngỡ ngàng

Con tàu HQ 957 của Lữ đoàn 125, Quân chủng Hải quân đưa đoàn công tác chúng tôi ra thăm huyện đảo Trường Sa và các nhà giàn DK1 khởi hành vào lúc biển, trời xanh như ngọc. Hai ngày đầu lênh đênh trên biển, gió mơn man mát rượi, trời tuyệt đẹp và sóng dịu êm nên hơn 100 vị khách ra hết boong tàu ngắm cảnh, chụp hình, chuyện trò, đánh cờ tướng… tận hưởng sự thú vị của lần đầu tiên ra biển lớn. Vui hơn cả là 12 “bóng hồng” gồm cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Nam Định, 8 em văn công, 2 phóng viên trẻ của Đài Tiếng nói Việt Nam và một nữ quân y. Quên nỗi lo say sóng, chị em hớn hở nói cười, tâm sự và tham gia nấu ăn cùng với các thủy thủ… Nhìn những đàn cá chuồn tới tấp vọt bay trên mặt biển; những chú hải âu chao liệng trước mũi tàu bất ngờ bổ nhào bắt cá chuồn trúng như nam châm hút bụi sắt; rồi đàn cá heo hàng trăm chú lừng lững nối nhau nhảy cầu vồng qua những con sóng, đuổi theo tàu suốt khoảng 10 phút… cả đoàn ai cũng ngỡ ngàng: Đại dương có quá nhiều điều thú vị!

Nhưng đúng như các thủy thủ dự báo: Khi cá heo “khiêu vũ” là thời tiết biển sắp đổi thay. Vào thăm đảo Song Tử Tây, lúc chúng tôi quay ra tàu, sóng lừng lững nối đuôi nhau xô vào mép đảo tung bọt nước mịt mù, trắng xóa. Sóng ngày càng lớn khiến xuồng chở chị em văn công từ đảo ra không thể cập mạn tàu. Nhìn chiếc xuồng cứu hộ được thiết kế hình tàu ngầm, giữa biển khơi trông nhỏ nhoi như quả trứng chao đảo sắp chìm, người trên tàu cứ thót tim, còn chị em dưới xuồng thì mặt cắt không còn giọt máu.

Bịn rịn “người ở đừng về” trên đảo Nam Yết.

Sau một hồi vật lộn giữa sóng lớn, mặc dù 3 thủy thủ trên xuồng hết sức động viên, nhưng các nữ diễn viên Nhà hát Chèo và Nhà hát Cải lương Nam Định vẫn mếu máo. Phải mất 15 phút căng thẳng đến ngạt thở, chiếc xuồng cứu hộ mới cập được mạn tàu. Những khẩu lệnh đanh thép át tiếng gầm gào của sóng. Những cánh tay, bắp chân của gần 20 thủy thủ đều căng lên như gọng kìm ghì, bám, siết, đẩy, giữ cho chiếc xuồng đang lắc lư, trồi sụt tới 2-3m không bị sóng đánh mạnh vào mạn tàu vỡ vụn… Mỗi người được kéo vào boong là mọi người đồng loạt thở phào. 8 “bóng hồng” trên chiếc xuồng ấy khi lên đến tàu thì 2 người ngất xỉu phải sơ cứu, còn 6 người vừa mếu máo, vừa nôn thốc tháo, các thủy thủ phải dìu, bế về phòng.

“Tiên giáng” đảo xa

Biển động, sóng lớn từ hôm ấy đến hết 10 ngày hải hành đã khiến tôi càng nhận rõ một điều: “Đồng đội tôi giữa trùng khơi mong được gặp những “bóng hồng” đến cháy lòng, cháy dạ”.

Nói như thế nhiều người bảo quá lời. Nhưng với những ai đã từng ở Trường Sa và các nhà giàn DK1, dù chỉ vài ngày thôi cũng sẽ hiểu điều này. Giữa đại dương bao la, cách đất liền 2-3 ngày đêm tàu chạy là một hòn đảo nhỏ, có khi chỉ là một ngôi nhà vài chục mét vuông kiên cường chống chọi với sóng dữ biển khơi. Những người lính làm nhiệm vụ nơi ấy phải đối mặt với muôn vàn thiếu thốn, hiểm nguy, song điều anh em mong nhất không phải là sự đủ đầy, nhàn hạ, mà là được gặp người từ đất liền ra để bớt cảm giác cô đơn, quạnh vắng. Đảo lớn đông người và có nhân dân sinh sống còn đỡ, chứ những đảo chìm và nhất là các nhà giàn DK1 thì quanh năm suốt tháng chỉ vài ba chục chàng trong ngôi nhà giữa sóng nước đại dương. Chưa cần nói đến lúc biển động, bão giông, mà ngay mùa biển lặng cũng có khi suốt ngày chẳng thấy con tàu nào đi qua, rất hiếm khi được gặp người đất liền ra, nói chi là được gặp phụ nữ.

Thì đấy, nhà thơ Trần Đăng Khoa, người có thời gian khá dài là lính Trường Sa, đã kể trong tập truyện ký “Đảo chìm” rằng: Năm xưa, khi đồng chí Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương ra Trường Sa, hỏi anh chiến sĩ trẻ: “Ở đây thì mọi thứ đều thiếu thốn rồi. Nhưng cái gì cần nhất, cấp thiết nhất, các cậu cứ nói thẳng để Bộ tư lệnh tạo mọi điều kiện giúp đỡ…”. Anh lính trẻ ngập ngừng, rồi thẳng thắn báo cáo Tư lệnh: “Con đề nghị bận sau, nếu bố ra đảo, bố chịu khó giắt lưng cho chúng con vài cô gái... Chúng con chỉ cần bố mang ra đây vài cô nuôi quân thôi! Các cô ấy chẳng phải hát hò gì. Chỉ mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi phơ phất trên đảo, để chúng con ngắm, chúng con “chỉnh” mắt. Chứ mắt mũi chúng con, bố thấy đấy, sang vành hết cả rồi!...”.

Thượng tá Hoàng Minh Chí, Phó lữ đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Lữ đoàn 171, người đã nhiều lần đến công tác ở cả 15 nhà giàn DK1, kể với tôi: Bộ đội đóng quân trên các đảo xa, đặc biệt là lính nhà giàn coi chị em từ đất liền ra thăm như những “nàng tiên giữa biển khơi”. Có nhiều chàng ra công tác 1-2 năm không một lần được gặp “bóng hồng”.

Biển động mạnh không vào được Nhà giàn DK1/12, các “nàng tiên” vừa khóc, vừa hát qua máy bộ đàm phục vụ những người lính biển.

Thảo nào, “văn công có vào không anh?” là câu hỏi tôi thường được nghe mỗi khi đặt chân lên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (vì các nhà báo luôn được bố trí đi chuyến xuồng đầu tiên vào đảo). Ở đảo chìm Len Đao, Thiếu tá quân y Phạm Văn Thi đã hơn 20 năm tuổi quân, gần 50 tuổi đời, thế mà khi biết chị em văn công không vào được đảo bởi sóng to, khuôn mặt anh thoáng thẫn thờ: “Anh em tôi háo hức chờ văn công cả tháng nay, ai nấy đều râu tóc rất gọn gàng, lại chuẩn bị cả hoa ốc (hoa được làm từ những con ốc biển - PV) để tặng chị em… Nay văn công không vào được thì thật buồn”…

Đến Nhà giàn DK1/12, sóng lớn cũng khiến đoàn công tác chúng tôi phải lỗi hẹn với những người lính biển. Trong lúc biển dữ dằn ấy, không ai kìm được nước mắt trước cảnh hai nữ diễn viên Diệu Hằng và Thanh Nga của Nhà hát Chèo Nam Định vừa khóc, vừa hát qua máy bộ đàm phục vụ bộ đội nhà giàn. Giữa biển khơi giông gió, tiếng hát của hai cô gái lẫn trong tiếng nấc, còn bộ đội trên nhà giàn thì cứ nghe hết một bài hát lại tranh thủ hỏi chuyện hai nữ diễn viên, như sợ những “nàng tiên biển” sắp biến mất. Khi ca sĩ Diệu Hằng nức nở bày tỏ tình cảm của mình và mong những người lính biển thông cảm vì sóng lớn nên đành cách trở, thì đồng đội tôi từ phía nhà giàn cũng nghẹn ngào: “Sóng to gió lớn thế này mà các em ra được đây là bọn anh ấm lòng lắm rồi, cảm thấy phấn chấn tinh thần lắm rồi! Gần một năm nay, anh em nhà giàn này chưa được đón người từ đất liền ra thăm nên mong lắm! Chỉ tiếc biển chẳng chiều lòng người”…

Thượng tá Nguyễn Ngọc Bảo, cán bộ Phòng Tác chiến Quân chủng Hải quân, đã gần 30 năm làm “lính biển”, bộc bạch: “Bộ đội đảo xa mong được đón văn công không hẳn vì “đói” văn nghệ, mà để được “ngắm” và trò chuyện với những “bóng hồng”. Quanh năm chỉ toàn đàn ông với nhau nên có khi cả tuần không soi gương… Chị em ra thăm là cuộc sống trên đảo sinh động hẳn”.

Lời anh Bảo khiến tôi nhớ thời công tác ở đơn vị cơ sở, cả trung đoàn toàn “giới mày râu”, thi thoảng nhìn thấy “bóng hồng” vào doanh trại, bộ đội ta đang làm gì cũng tạm dừng để “tranh thủ ngắm”, rồi nói cười rôm rả hẳn lên. Ngày đó với chúng tôi, “bóng hồng” nào cũng là hoa khôi, hoa hậu.

Người đất liền đã thế, huống chi bộ đội đảo xa. Hôm chúng tôi vào thăm đảo Nam Yết, được một giờ giao lưu văn nghệ trong hội trường mà anh em cứ đề nghị các nữ diễn viên hát mãi. Lúc đoàn công tác phải ra tàu đi tiếp, đứng dưới trời mưa chia tay, các chàng lính biển giúp chị em sửa sang lại áo phao, họ nắm tay nhau chẳng muốn rời. Tình cảm của bộ đội đảo xa khiến các nữ diễn viên không kìm được nước mắt... Hình ảnh tôi nhớ mãi là từ những ô cửa có khá nhiều chiến sĩ trẻ lặng lẽ, thẫn thờ nhìn theo các “nàng tiên” rời đảo...

Đại úy Triệu Tiến Huy, Chính trị viên đảo Len Đao bảo tôi: “Chờ đón khách đất liền ra, anh em háo hức bao nhiêu thì lúc khách về hẫng hụt bấy nhiêu. Có khi suốt tuần cả đảo cứ bâng khuâng, phải lâu lắm mới trở lại sự cân bằng tâm lý. Chúng tôi rất mong cấp trên tổ chức thêm nhiều đoàn ra thăm đảo xa, nhất là thân nhân bộ đội và các đoàn văn công để cuộc sống của lính đảo thêm tươi vui, sinh động”.

Bài và ảnh: CÁT HUY QUANG

Bài 2: “Tề gia”... từ xa