 |
Một góc của xã đảo Cù lao Chàm. |
“Cù lao Chàm- tám giọt thiên đường bãi Hương, Khô mẹ…/ Những hàng dừa xanh, xanh mình đến lạ/ Biển cát thoải dài lanh lánh nước mây” (Thơ: Phan Thanh Minh). Một nét đặc tả về sức sống bất diệt của Cù lao Chàm - vùng đất trên biển đã được nhắc tới như niềm tự hào của người dân Quảng Nam- hay đơn giản là nỗi “thèm” cá ngon của ngư dân trải trên 3.000km bờ biển Việt Nam. Cù lao Chàm đã hấp dẫn những ai đặt chân tới bởi vẻ đẹp thiên nhiên và hơn cả là sự cần cù, sức dẻo dai của con người đang từng ngày gìn giữ và làm cho đảo thêm tươi xanh, trù phú.
Trầm tích di sản
Điều may mắn nhất với ai đó đặt chân lên vùng mới là gặp được một người dân bản địa “ưa nói” về mảnh đất đó. Trong hành trình này, chúng tôi là những người may mắn. Trước khi vào Hội An, một người bạn giới thiệu với tôi: Ông là một hướng dẫn viên du lịch chính hiệu. Cảm giác ban đầu gặp ông, tôi đã không tin. Dáng nhỏ nhắn, đôi chân tập tễnh, cộng với cái tuổi lục tuần khiến ông giống một người chuẩn bị an hưởng tuổi già hơn là một người nay đây mai đó. Nhưng ông đã phủ định ý nghĩ đó của tôi ngay từ khi bước lên tàu. Bằng tình yêu chân thành, vẻ mộc mạc của người dân biển và vốn hiểu biết của một người vốn từng là giáo viên dạy văn trường huyện, ông đã “kết nối” du khách với Cù lao Chàm. Ông là Phạm Phú Thanh. Ông Thanh như “sợi chỉ” xuyên suốt cuộc hành trình của chúng tôi đến Cù lao Chàm.
Từ biển Cửa Đại, chỉ cần giơ tay theo phương ngang của mặt đất là có thể “vợt” được cái dải xanh mướt mát mang tên Cù lao Chàm. Nhưng để chạm được vào cái “vợt” ấy, chúng tôi phải mất hơn một giờ đi bằng tàu du lịch. Cù lao Chàm thuộc xã đảo Tân Hiệp, thị xã Hội An (Quảng Nam) có chiều ngang trung bình 1km, trải dài 3km, như hình một con rồng trườn dài trên mặt biển nên còn có tên là Ngọa Long đảo. Hàng nghìn năm trước, nơi đây gắn liền với sự hình thành và phát triển của đô thị thương cảng Hội An. Nay, Cù lao Chàm trở thành một di tích văn hóa lịch sử. Tại đây còn nhiều di tích thuộc các nền văn hoá Sa Huỳnh, Chăm Pa, Đại Việt, với các công trình kiến trúc cổ của người Chăm và người Việt có niên đại vài trăm năm. Tôi hình dung ra từ sản vật, muông thú, cho đến di tích lịch sử quý giá nhất... dường như đều tập trung ở hòn đảo nhỏ này.
Chỉ tay vào những hòn đảo nhấp nhô trên biển, ông Thanh bắt đầu giới thiệu với chúng tôi:
- Cù lao Chàm bao gồm 8 đảo: hòn Lao, hòn Dài, hòn Mồ, hòn Khô mẹ, hòn Khô con, hòn Lá, hòn Tai, hòn Ông, với dân số khoảng 2.700 người, trong đó 85% là làm nghề đánh bắt hải sản, 10% trồng lúa, 5% là buôn bán. Cơ cấu ngành nghề này có thể xê dịch do mùa ngư nhàn người dân đi rừng và chuyển sang nghề khác. Với 15km2 diện tích nhỏ nhoi, nhưng Cù lao Chàm từng có thời đóng góp cho ngân sách toàn tỉnh Quảng Nam tới 25%.
Có được sự đóng góp không nhỏ ấy, hẳn rằng Cù lao Chàm đang chất chứa nhiều sản vật quý. Người dân Hội An tự hào khoe với chúng tôi:
Cá ở Cù lao Chàm được xem là ngon nhất Việt Nam.
Sở dĩ Cù lao Chàm trở thành vùng có cá ngon nhất là do thiên nhiên ưu đãi. Thu Bồn là con sông lớn nhất miền Trung đổ nước ngọt vào làm cho cá ở đây vừa ngọt, vừa béo. Đó là dãy Trường Sơn đâm sâu ra biển Đông kết hợp với Cù lao Chàm thành một con rồng che ngọn gió Đông Bắc nên vùng tảo rong ở đây được giữ lại không bị trôi dạt đi. Đến nay, Cù lao Chàm còn có 135 loài san hô, trong đó có 6 loài lần đầu tiên ghi nhận xuất hiện ở vùng biển Việt Nam, 500 thảm rong và cỏ biển, 202 loài cá, 4 loài tôm hùm và 84 loài nhuyễn thể.
Ông Thanh kể với chúng tôi về những đội công nhân đi khai thác yến ở khu vực Cù lao Chàm với biết bao vất vả, nhọc nhằn. Người công nhân khai thác yến phải túc trực ở hang yến hàng tháng trời để lấy được tổ yến. Được biết, với địa thế hiểm trở và nhiều hang đá cheo leo, ở khu vực Cù lao Chàm, chim yến bay đến làm tổ và sinh sôi nảy nở rất nhiều. Nghề khai thác yến sào nơi đây cũng đã có từ lâu. Trong sách Phủ biên tạp lục có đoạn: “Xã Trung Châu, phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam có nghề yến sào”. Truyền thuyết, vợ chồng ông Trần Công Tiến đi câu bị bão đánh dạt vào đảo. Bị kẹt lại nhiều ngày, hết lương thực, đói quá, ông bèn bứt lấy tổ yến để ăn. Ăn xong thấy người khỏe hẳn ra. Sau khi thoát nạn, ông tổ chức khai thác loại sản vật quý hiếm này. Đội khai thác yến “chuyên nghiệp” đầu tiên được thành lập vào năm 1806, dưới thời vua Gia Long, do ông Hồ Văn Hòa làm quan chuyên quản. Sau ông được triều Nguyễn sắc phong "Quản linh tam tỉnh yến hộ". Hiện ở bãi Hương vẫn còn miếu thờ ông Hồ Văn Hòa. Lễ giỗ tổ nghề yến diễn ra hằng năm vào ngày 7 tháng 3. Hiện nay, ở Cù lao Chàm có những đội chuyên khai thác yến. Họ sống hẳn ngoài đảo, mỗi tháng trở về đất liền một lần.
Một người công nhân đã kể với tôi về mối tình chung thủy của loài yến. Khi chúng gắn bó với nhau, ngày nào chim trống cũng chắt chiu từng tí nước bọt để làm tổ cho chim mái đẻ, ấp. Đến khi yến con trưởng thành, cũng là lúc con người lấy cái tổ đi. Trước kia, yến sào là một trong 16 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Hội An.
Chỉ hơn một giờ đi trên biển, ông Thanh đã cho chúng tôi hình dung về một Cù lao Chàm với những tiềm năng dồi dào.
“Cái nhân văn của người Việt”
Sáng miền Trung, ánh nắng dát vàng cộng hưởng với màu xanh của Cù lao Chàm tạo nên một không gian huyền diệu giữa biển khơi. Một quang cảnh gần gũi của đất liền tràn trề trước mắt. Những tán cây phủ rợp bóng mát, những đoạn đường rải bê tông quanh co. Mùi mặn mòi của biển lan tỏa khắp không gian tôi đặt chân đến. Những người dân chài làn da đen nhánh, nụ cười sáng lóa đón khách. Bất chợt, tôi nhớ tới lời ông Thanh khi mới xuống tàu:
- Đi du lịch Cù lao Chàm để tìm hiểu cái nhân văn của người Việt. Nơi đó, người ta chào hỏi nhau rất thân tình, kể cả với những người chưa từng quen mặt. Có lẽ, giữa biển, cô đơn, họ thèm khát tình cảm của nhiều người hơn nữa.
Và những người mới đến như chúng tôi đã không có cảm giác cô đơn giữa đảo. Nụ cười thân thiện của người dân Cù lao Chàm luôn kéo tôi gần lại với họ. Tôi không phải là người gợi chuyện như bao lần mà chính những người dân ở đây đã gợi chuyện cho chúng tôi được hỏi, được nói. Họ chỉ cho tôi thấy những thứ họ đang làm, những sản vật mà vùng đất này có bằng một chất giọng thật “mặn”.
Giữa biển khơi, cảnh tượng một làng quê hiện ra khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng. Đó là những mảnh ruộng nứt chân chim, phơi gốc rạ, những giếng làng tràn trề nước xanh trong. Nguồn nước ngọt ở Cù lao Chàm rất dồi dào. Đi giữa làng, thỉnh thoảng lại bắt gặp một khoảng đất bằng cái nong, nước ngầm chảy liên tục. Nước ngọt thỏa cơn khát của những ngư dân trở về đất liền sau bao ngày miệt mài trên biển. Những nong cá được phơi bên vệ đường. Vị của biển, vị của đất liền quyện lấy nhau. Một sức sống căng tràn trên vùng đảo Cù lao Chàm. Bức tranh tràn nhựa sống ấy có ở những thứ đang hiện hữu, ở cả trong đời sống tâm linh, văn hóa tinh thần của người dân trên đảo.
Được biết, trước đây Cù lao Chàm còn có tên là “Chiêm bất lao”, còn bây giờ, 2.700 dân không “bất lao” nữa. Họ đang đêm ngày cật lực làm ăn để tạo dựng cuộc sống ấm no. Một cuộc sống vật chất tràn trề trên vùng cù lao. Song hành với đó là những hoạt động văn hóa tinh thần trù phú. Ông Thanh hào hứng nói với tôi:
- Người dân miệt mài lao động để xây dựng cuộc sống. Bên cạnh đó họ cũng có tín ngưỡng của người Việt.
Ngôi chùa Hải Tạng được xây dựng từ năm Cảnh Hưng 19 (1758). Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng thờ Phật kết hợp thờ thánh thần nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của ngư dân trên đảo và cho thương thuyền các nước ghé vào hành lễ. Trong hành trình, chúng tôi đã đến thăm địa điểm này. Bước vào ngôi chùa, một cụ bà dáng người nhỏ nhắn, chừng 70 tuổi đang lúi húi quét dọn. Nhìn thấy chúng tôi, bà niềm nở:
- Mời các cô vào chùa uống nước!
Từ ngoài nắng bước vào đến hiên chùa, nhiệt độ như thay đổi đột ngột. Trong không gian tĩnh lặng và mát mẻ, cầm chén nước từ tay của cụ bà, bên tai tôi nghe rõ những lời giải thích:
- Chè này được đun từ các loại lá lấy từ trên rừng và nước được lấy từ giếng khơi. Đó là thức uống phổ biến nhất ở Cù lao Chàm. Nó được so sánh như nước vối ở trong đất liền vậy.
Một mùi ngai ngái tỏa ra, uống vào tôi bỗng thấy vị ngọt và mát lạ thường. Và, ai trong đoàn chúng tôi đến đây trước khi vào thắp nén nhang trong chùa đều được thưởng thức nước uống giải khát này. Nhiều người nói với nhau: “Đi chùa nơi này như được thưởng thức một thứ “đặc sản tâm linh”.
Cù lao Chàm có đầy đủ nội lực của quá khứ, hiện tại và tương lai để phát triển thành một vùng đất giàu có. Không những thế, miền đất còn là điểm giao hòa giữa những người ngày đêm gắn bó với cù lao cùng những người đem tình yêu từ đất liền ra thắp sáng biển khơi.
(Còn nữa)
Bài và ảnh: HỒNG VÂN – MAI HƯƠNG