Pai-lin, mùa hạ cuối (kỳ 1)
Pai-lin, mùa hạ cuối (kỳ 2)Pai-lin, mùa hạ cuối (kỳ 3) 8. Chuyện trên “Con đường vàng”
Con đường đất rải đá dăm nham nhở ổ gà, ổ voi chạy qua con suối Xăng-ke trước cửa Phòng chính trị sư đoàn 330 có tên theo tiếng Khơ-me nghĩa là “Con đường vàng”. Địa bàn đơn vị đứng chân là xã Phlâu-mia, tức Đường Vàng. Về ý nghĩa của cái tên này thì có nhiều cách giải thích khác nhau. Trong đó có cách giải thích rằng: gọi như vậy vì đây là con đường dẫn vào khu mỏ đá quý Ô-đa của xứ sở kim cương Pai-lin. Theo tôi cách giải thích này có lý hơn cả!
Xã “Đường Vàng” nhưng dân thì rất nghèo. Gần đây nhờ bộ đội Tình nguyện Việt Nam giúp đỡ mới dựng được một trường tiểu học có ba phòng, một nhà trạm xá và một trụ sở Uỷ ban nhân dân xã. Điều đặc biệt là xã có gần một nửa số gia đình có con em đang theo Pôn-pốt, nhưng phong trào du kích và các tổ chức đoàn thể cách mạng của xã lại hoạt động khá nền nếp. Trung đội dân quân của xã có ba tiểu đội. Tiểu đội Một do huyện đội trực tiếp đầu tư trang bị và bảo đảm hậu cần, có nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu tại trụ sở Uỷ ban xã. Tiểu đội Hai và tiểu đội Ba hoạt động phân tán trong năm phum của xã là: Phlâu-mia, Chi-bang, Vót, Băng-cà-tum và Piêng-liêng. Nhiệm vụ của hai tiểu đội này là tuần tra bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh của xã đội. Xã đội trưởng kiêm trung đội trưởng dân quân là En-thươn vừa được huyện đội rút lên làm Trưởng ban dân quân huyện.
Chủ tịch xã LụcVan kể chuyện với “coong-tóp nhà báo” (nhà báo bộ đội) nửa như phân trần, nửa như giải bày: “Xã nghèo nên dân trí rất thấp. Hầu hết thanh niên không biết chữ, nghe Pôn-pốt dụ dỗ lôi kéo, tuyên truyền nói xấu bộ đội Việt Nam, thế là trốn đi theo chúng, hoạt động kiểu thổ phỉ. Nhiều người chui lủi cực khổ, được gia đình vận động, được mắt thấy tai nghe sự thật thì tìm cách quay về. Năm 1988 có gần bốn chục người, ba tháng đầu năm nay có chín người nhờ gia đình dẫn ra đầu thú. Ở phum Băng-cà-tum có cô Xa-lết làm công tác Hội phụ nữ xã rất hăng, nhưng lại có anh trai đang trốn theo Pôn-pốt, làm đến cán bộ trung đoàn…”.
Làm cán bộ dân vận ở bên này cũng vất vả và nguy hiểm chẳng kém gì anh em đang truy kích địch trong rừng. Hỏi chuyện về công tác này, nhiều người nhắc đến trung uý Trần Duy Thông, hai mươi sáu tuổi, đội trưởng đội xây dựng cơ sở của trung đoàn 3. Anh Thông quê ở Nghệ Tĩnh, đã có vợ và một con, làm dân vận rất giỏi, được bà con tin yêu quý mến. Bọn địch rất thù anh và tìm cách sát hại. Ngày 3-10-1987, trên đường đi xây dựng cơ sở, Thông lọt vào ổ phục kích của chúng. Bà con phum Phlâu-mia làm ma cho anh và khóc rất nhiều. Tháng Bảy năm 1988, thêm một chiến sĩ dân vận bị hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ. Anh là Trần Thanh Hà, quê ở Bến Tre, sang bên này mới hai năm nhưng thạo tiếng Khơ-me và am hiểu phong tục tập quán địa phương nên đi dân vận rất tốt. Trung sĩ Dương Văn Thành cũng là một người như thế, nhưng vừa rồi bị đái huyết cầu tố nặng quá, phải chuyển về điều trị ở tuyến sau.
“Sư phụ” về dân vận ở sư đoàn 330 phải kể đến thiếu tá Lê Minh Trọng, Phó chủ nhiệm chính trị sư đoàn. Anh Trọng vốn là một cán bộ huyện đội Đức Thọ-Hà Tĩnh, được gọi vào chủ lực sau hồi tổng động viên năm bảy chín, làm lính cao xạ bảo vệ thủ đô Phnôm-pênh những ngày đầu mới được giải phóng, sau đó được chuyển sang bộ binh. Hiện nay vợ con anh vẫn làm ruộng ở quê nhà Đức Thọ. Tròn mười năm làm quân tình nguyện giúp bạn, anh đã có mặt gần như khắp mọi hang cùng ngõ hẻm ở Cần-đa, Xrây-viêng, Com-puông-spư… lại vòng lên Xiêm-riệp, Bát-đom-boong… Cái chất nông dân cộng với kinh nghiệm của một cán bộ huyện đội thật hợp với nhiệm vụ của một chuyên gia quân sự địa phương. Cả con người anh nữa, thoáng gặp đã rất… địa phương: người thâm thấp, da ngăm ngăm, tóc xoăn xoăn… và đặc biệt ngữ điệu Khơ-me khi trò chuyện với bà con địa phương bên này thì đố ai biết anh là dân Nghệ. Bạn bè chiến hữu Khơ-me của anh ở bên này, có người nay đã là cán bộ cao cấp như Ô-lơ-vi hiện đang công tác trên Bộ Quốc phòng của Bạn. Còn Út-xmát và Mau-xvát, sư trưởng và sư phó sư đoàn 92 bộ đội địa phương Quân khu 3 của Bạn thì vẫn thường xuyên trao đổi thư từ liên lạc với anh. Còn hẹn: “Bao giờ yên hàn, mời vợ con Trọng sang bên này chơi một chuyến. Bọn này sẽ bao tất!”. Vừa mới chuyển về sư đoàn 330 được mấy tháng, anh đã quen mặt hầu hết trẻ con, người lớn trong các phum sóc. Mấy lần chúng tôi theo anh vào các phum sóc trong vùng, gặp người già con nít ai cũng kêu tên “Boòng Trọng” rất thân mật. Anh Trọng chắp tay “oóc-cun” (cảm ơn) rất hồ hởi, rồi trỏ tay vào chúng tôi ý bảo là đang bận, hẹn lúc khác…
Phòng chính trị thông báo hôm nay sẽ cho hai nhà báo lên “Vườn nhãn”. Trung đoàn 1 vừa xong một đợt truy quét địch, trở về Vườn nhãn đêm qua. Chúng tôi sẽ được lên Vườn nhãn bằng xe tải chở hàng của phòng hậu cần, có cả một số chiến sĩ vừa ra viện và ở mấy đơn vị trực thuộc đi cùng.
Kéo nhau sang phòng Hậu cần từ sáng sớm, nằm ngồi chờ đợi mãi đến quá mười hai giờ trưa mới có xe để đi. Đã bắt đầu mùa mưa. Mưa chiều xối xả quất xuống chiếc xe tải mui trần. Chúng tôi đội áo mưa ngồi trên thùng xe cùng các chiến sĩ. Anh em chen chúc ngồi bên nhau, cậu nào cũng gầy ốm, xanh xao. Một vài người còn quấn băng trên đầu, trên cánh tay, bắp chân… Mỗi khi xe xóc, các anh nhăn nhó trông thật tội nghiệp.
Đoạn đường từ sư đoàn bộ lên Vườn nhãn rải nhựa nhưng nham nhở, loang lổ, bong tróc từng mảng… rất khó đi. Đây là đoạn quốc lộ 10A nối Pai-lin với thành phố Bát-đom-boong. Các phum sóc bám sát hai bên đường, làm thành từng cụm dân cư, quang cảnh hoang tàn trống trải. Rất nhiều ngôi nhà im ắng như không có người ở, vườn hẹp và bỏ hoang không trồng trọt gì. Cũng có những phum sóc có người đi lại, làm việc, nhưng trông nhếch nhác, súc vật thả rông nghênh ngang vạ vật…
Những phum sóc có vẻ trù phú thì hàng quán la liệt hai bên đường. Khách hàng có cả bộ đội nhưng chủ yếu là người địa phương. Nghe nói hàng quán vùng này chủ yếu phục vụ dân đi khai thác đá quý ở vùng Ô-đa. Thỉnh thoảng cũng gặp những cô chủ quán khá xinh, da trắng, tóc đen mượt. Anh em bảo phần lớn đó là con gái gốc Hoa, gốc Việt hoặc Thái Lan.
Đoạn đường hơn hai chục cây số mà sấp ngửa suốt mấy giờ mới tới nơi. Có hai lần xe phải dừng lại khá lâu để lội qua ngầm tạm vì cầu đã bị phỉ Pôn-pốt đặt mìn phá hoại tháng trước để cản bước chân truy quét của bộ đội Tình nguyện. Vùng này tàn quân Pôn-pốt hoạt động rất ráo riết, nhiều phum sóc ban ngày là của ta, ban đêm là của chúng. Chính quyền cơ sở vùng này cũng không vững mạnh như ở vùng Phlau-mia.
Vườn nhãn là nơi hạ trại của trung đoàn 1. Đó là một vùng vườn tược khá rộng và bằng phẳng, có lẽ trước kia là trang ấp của một Lục-thum (ông lớn) nào đó. Trong vườn chủ yếu là xoài và nhãn, có cả một cánh đồng mía bạt ngàn dễ đến vài năm không ai chặt nên mía trổ cờ phất phơ như lau sậy um tùm. Đang mùa xoài chín bói nhưng không có ai thu hoạch. Đêm đêm xoài rơi lộp bộp đầy vườn, nghe thật não nề hiu quạnh…
Đất nước xứ người mênh mông xa lạ thế, vậy mà cũng có những cuộc tái ngộ thật bất ngờ thú vị. Hôm Hồng Thanh Quang đi tàu thống nhất từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh, ngồi cùng ghế với một “chú bộ đội”, chuyện trò trên trời dưới bể với nhau suốt hơn hai ngày đêm. Rồi chia tay nhau ở ga Sài Gòn, đường ai nấy đi. Nào ngờ hôm nay lên Vườn nhãn, lại gặp anh ta ở đây. Thì ra Hùng-tên cậu ta- là bác sĩ tốt nghiệp Đại học quân y ở Hà Đông năm 1984, sang đây từ năm 1985, vừa được đi phép để cưới vợ giữa tháng Tư vừa rồi.
Tôi cũng có một cuộc gặp bất ngờ và thú vị ở Vườn nhãn: Hôm đi xe khách từ thành phố Hồ Chí Minh sang Cam-pu-chia, tôi ngồi cạnh một chiến sĩ quân Tình nguyện cũng vừa đi phép về quê Nghệ Tĩnh. Chia tay nhau ở Phnôm-pênh, nào ngờ hôm nay lại “chạm” nhau ở đây. Đến lúc này tôi mới biết anh tên là Dưỡng, ở tiểu đoàn pháo binh tăng cường…
Nhưng “người quen” ấn tượng nhất ở Vườn nhãn phải kể đến anh Bảy Đùm. Hôm ở cơ quan sư đoàn bộ, tôi đã tình cờ gặp anh, lúc anh đang “hăng hái” tranh luận (hay báo cáo gì đó) với mấy cán bộ tham mưu sư đoàn:
- Địch phía này không hình thành tiền duyên, không phòng ngự theo thế liên hoàn mà bố trí từng chốt riêng rẽ. Vậy thì phải đánh cách khác chứ? Bây giờ vẽ trên sơ đồ thuyết minh thì dễ, chứ trên thực địa thì biết bao xương máu anh em đã đổ? Bây giờ các anh vặn vẹo chúng tôi vì sao đánh chỗ này, chỗ kia? Tại sao từ đầu không chỉ cho chúng tôi nên đánh chỗ nào, đánh như thế nào? Nói thật nhé: khu vực này tụi đi khảo sát về vẽ loạn xị ngậu, yêu cầu điều hai tiểu đoàn. Nhưng tôi cam đoan chỉ cần một dê, đòm vài quả pháo là chúng chạy như vịt…
Cái khẩu khí của một viên đại uý trước mặt cấp trên khiến tôi chú ý. Người tầm thước, da đen xạm, vết thẹo như một con đỉa vắt ngang lưỡng quyền má phải trông thật dữ dằn. Mỗi khi “con đỉa” ấy đỏ tấy lên và giật giật liên hồi là anh đang phê rượu, hoặc là đang rất cáu, nhưng toàn nói đúng, chẳng mấy khi sai. Thoạt đầu tôi cứ tưởng Bảy Đùm là biệt hiệu, gặp nhau ở Vườn nhãn chuyện trò, mới hay đó là tên cúng cơm của anh. Thằng em kế của anh đang làm bí thư huyện uỷ cũng tên là Tám Túm. Quê anh ở xã Diễm Điền, huyện Châu Thành-Tiền Giang. Nhà nghèo nên học hành lẹt đẹt mãi vẫn không qua nổi lớp năm. Hồi Mỹ đổ quân vào miền Nam anh vừa mười sáu tuổi, trốn theo bộ đội địa phương, sau được lên chủ lực. Mậu Thân sáu tám anh đã có mặt ở Cam-pu-chia. Sau năm bảy mươi được về nước đi học văn hóa cấp hai, học quân chính để làm sĩ quan phân đội. Đến năm 1980 lại sang Cam-pu-chia lần nữa, trong đội hình sư đoàn 330. Chẳng biết có phải vì anh văn hóa thấp, chưa qua trường lớp chinh qui, hay vì cái tính thẳng thắn, hay nổi nóng với cấp trên… mà kịch trần đại uý đã vài niên hạn vẫn chưa thấy cấp trên “vận dụng” chế độ gì. Ai cũng tiếc cho anh, một cán bộ sâu sát, năng nổ, đánh trận thì tuyệt vời. Lại có người tỏ ra thông cảm cho hoàn cảnh của anh: Vợ làm ruông ở quê, đàn con sáu đứa hột gà hột vịt nheo nhóc. Thế mà anh thì chẳng có biểu hiện “cay cú” hay than vãn tí tẹo nào. Lại cứ luôn mồm bảo: “Nhân bất học bất tri lý. Tao ít học nên kịch trần đại uý”.
(Còn nữa)
MAI NAM THẮNG