6.Bay lên Bát-đom-boong

Ngày 17-5-1989.

Bảy giờ kém hai mươi phút sáng, Văn phòng Mặt trận cho xe chở hai nhà báo ra sân bay Pô-chen-tông. Chiếc trực thăng mang số hiệu 7803 của Mặt trận 979 (Quân Tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia) đã nổ máy chờ sẵn. Cũng may nhờ ra mặt trận nên đây là lần đầu tiên tôi được đi máy bay. Sau này nói chuyện với nhiều người đã từng có thâm niên ở chiến trường Cam-pu-chia, mới biết bên này cấp dưới xin đi nhờ trực thăng của cấp trên đơn giản hơn anh em ở bên ta xin đi nhờ xe con của các thủ trưởng.

Máy bay cất cánh, nhằm thẳng hướng Tây-Nam. Lần này chúng tôi được bám càng Thượng tướng Lê Ngọc Hiền-Phó Tổng tham mưu trưởng và Trung tướng Lê Hai-Phó Đại diện Bộ quốc phòng tại nước Bạn. Đây cũng là lần đầu tiên tôi được diện kiến hai vị tướng này. Nhìn chung, tôi cảm thấy nếu không phải là một vị tướng trận mạc nổi tiếng, thì bác Hiền cũng thật… hiền, không quá khắt khe nghiêm nghị như dáng vẻ bề ngoài của ông. Nghe nói trước năm 1945, ông từng làm công tác in ấn và phát hành báo “Độc lập” ở Hà Nội. Trung tướng Lê Hai cũng vậy, nghe nói trước đây ông đã từng làm nhà giáo rồi nhà báo, Tổng biên tập tạp chí Quân đội nhân dân, nay là tạp chí Quốc phòng toàn dân. Sau này ông về làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, trực tiếp phụ trách khối báo chí. Còn một nhân vật đặc biệt nữa là đại tá Nguyễn Chí Trung. Nói là đặc biệt không phải vì ông là cán bộ chính trị cao cấp, hội viên Hội nhà văn Việt Nam và có tác phong “sục sạo” của một nhà báo, mà vì những câu chuyện rỉ tai nhau vì sao đã ngót sáu chục tuổi rồi mà ông vẫn chưa có vợ.

Tác giả bên chiếc ô tô vận tải bị trúng mìn của tàn quân Pôn-pốt trên đường 10B

Đất nước Cam-pu-chia ở hướng này hiện ra dưới cánh máy bay trực thăng có vẻ bằng phẳng, ít đồi núi và cao nguyên, nhưng rừng thì trải bạt ngàn. Đã chớm mùa mưa nhưng những cánh đồng mênh mông vẫn bạc phếch khô khát. Những con sông kiệt nước đỏ quạch, chạy ngoằn ngoèo quanh những phum sóc thưa thớt. Lác đác thấy những ao hồ loang lổ như những mảnh vá trên tấm áo rách. Đường đất cũng đỏ quạch, bụi mù mịt cuốn theo những chiếc ô tô đang bò như những chú kiến trên một đường kẻ thẳng tắp.

Nắng vàng rực rỡ trên những cánh rừng phần lớn là họ tre trúc, ánh lên màu hoàng yến lộng lẫy. Trực thăng đáp xuống một khoảnh đất bằng phẳng cạnh cơ quan sư đoàn bộ 330. Vùng này thuộc xã Phlau-mia của huyện Pai-lin, tỉnh Bát-đom-boong. Động cơ máy bay nổ ầm ầm, cánh quạt vẫn quay tít, rừng cây xung quanh rạp xuống, ào ào như trong cơn lốc. Một tốp bộ đội đã chờ sẵn và khi những người cuối cùng trong đoàn chúng tôi vừa bước xuống khỏi cầu thang máy bay là họ vội vàng chuyển cáng thương binh lên máy bay. Trên cáng, những chiến sĩ trông còn trẻ măng, người băng quấn đầu, người băng quấn chân, có người không băng bó gì nhưng gầy gò, xanh mét, bất động. Chỉ một loáng, trực thăng đã rời bãi cỏ, tăng độ cao quay về hướng Phnôm-pênh. Mọi việc diễn ra như một qui trình cố định đã thành nề nếp, chẳng thấy ai nói năng hỏi han gì. Hình ảnh những chiếc cáng thương và những thương binh, bệnh binh vừa được chuyển lên trực thăng là ấn tượng mặt trận đầu tiên trong tôi. Chợt nhớ một câu thơ viết về bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia sau năm 1979: “Chẳng bia mộ nào cho những bàn chân”. Anh em thương vong chủ yếu là do mìn và thương tật chủ yếu là cụt chân vì mìn. Cả đất nước Cam-pu-chia lúc đó đang là một bãi mìn dày đặc, khổng lồ, rậm rịt nhằng nhịt không cách gì kiểm soát được. Mìn của địch cài là chính, nhưng mìn của ta cài cũng không ít. Đơn vị trước cài, đơn vị sau đến lại cài tiếp. Hồi trước các bãi mìn của ta phát huy tác dụng chặn địch, nay lại cản trở ta truy quét tàn quân. Nghe nói có hôm bộ đội ta hành quân, bị đạn cối địch rót trúng đội hình nhưng phải trần lưng mà chịu, không dám chạy vào rừng vì sợ vấp các loại mìn. Chuyện gia súc của dân chết vì giẫm phải mìn cũng xảy ra hằng ngày…

Sở chỉ huy sư đoàn 330 nằm gần “sân bay”. Vừa gặp cấp trên, đại tá sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Thanh xổ luôn một tràng phàn nàn về các trạm kiểm soát của Bạn gây khó dễ cho bộ đội Tình nguyện, như thể nỗi bức xúc đã kìm nén lâu nay. Một cán bộ trong đoàn rỉ tai tôi: Ông Ba Chơi (tên thường gọi của sư đoàn trưởng) đang buồn vì vợ mới mất. Chẳng rõ có đúng là lực lượng “bạn” hay không, vì chỗ thì xưng của Bộ Quốc phòng, chỗ thì xưng là của Quân khu, chỗ thì bảo là của Bộ Nội vụ, chỗ lại nói là lực lượng đặc biệt… nghe cứ loạn cả lên. Đồng chí sư đoàn phó kiêm chủ nhiệm hậu cần sư đoàn thì đoán có khi đó là lực lượng thân Pôn-pốt, chúng kiểm tra để nắm các hoạt động di chuyển của ta, nhất là việc vận chuyển vũ khí và thương binh, tử sĩ… để nắm tình hình. Hôm trước, có một xe vận tải gắn biển kiểm soát quân sự thuộc sư đoàn 130 của quân đội cách mạng Cam-pu-chia, nhưng lại chở phương tiện thông tin chạy vào căn cứ địch, bị chính bộ đội của Bạn tóm được.

Sư trưởng Ba Chơi trực tiếp gọi điện xuống phòng chính trị, bảo cho người lên đón hai nhà báo quân đội từ Hà Nội sang. Đợi một lúc thì có một chiến sĩ xuống đón. Chú bé bảo gần đây thôi, nhưng đi bộ luồn rừng gần hai cây số mới đến nơi. Cơ quan chính trị đóng gần bờ suối, giữa một vườn cam và đu đủ. Nghe nói trước kia đây là đồn điền của một chúa đất, bỏ của chạy lấy người trong chiến tranh. Cả cơ quan vừa đi tổng kết chiến dịch trở về, đang mổ thịt ngan liên hoan. Thế là nhà báo gặp may nhé! Khẩn trương xuống suối tắm rửa mà lên dự liên hoan. Con suối Xăng-ke qua đoạn này rộng chừng ba chục mét, hơi sâu nhưng nước đỏ quạch, phần vì mấy trận mưa đầu mùa, phần vì nạn đào đá quý ở vùng Ô-đa (thuộc Pai-lin). Cả cơ quan đoàn bộ và mấy đơn vị trực thuộc đều dùng nước con suối này. Nơi có điều kiện thì dùng phèn khử bùn, còn thì đa số là cứ múc lên, để lắng mà ăn uống. Quen rồi, có nước thế này là tốt chán. Nhớ những đợt truy quét địch hàng tuần trong rừng mùa khô, gặp được vũng nước sền sệt vàng khè cũng mừng như bắt được của…

7.Đái huyết cầu tố và…

Ấn tượng về những chiếc cáng thương lặng lẽ ở bãi đáp trực thăng khiến tôi chọn đơn vị quân y là điểm thâm nhập đầu tiên. Tiểu đoàn quân y cũng là trạm xá của sư đoàn. Đây là trạm xá tuyến hai. Tuyến một là các trạm xá trung đoàn, đôi khi phải phẫu thuật và cưa cắt tứ chi như một bệnh viện tiền phương.

Đội ngũ quân y tuyến hai có mười một bác sĩ, thường xuyên tăng cường cho tuyến một khoảng năm, sáu người. Hai mươi sáu y sĩ và y tá cũng thường xuyên đi tuyến trước gần một nửa. Ngoài ra còn có hơn chục người làm hộ lý, cấp dưỡng, quản lý... Có đợt anh em thương binh, bệnh binh phải xắn tay áo giúp đỡ trạm xá vì toàn bộ y tá, y sĩ, bác sĩ… đều ốm, chủ yếu là sốt rét. Anh em ở đây sợ nhất là sốt đái huyết cầu tố. Đó là một căn bệnh sốt rét đặc biệt, thường gặp ở chiến trường Tây Nguyên, Lào và Cam-pu-chia. Ở các bệnh viện tuyến sau ít khi gặp loại sốt rét này nên rất khó chẩn đoán và điều trị. Anh em bên này kể rằng, nhiều người về phép cứ phải dặn trước vợ con hễ thấy sốt đái ra màu huyết thẫm thì phải khẳng định với thầy thuốc là bị sốt đái huyết cầu tố, chớ có mất công chẩn đoán lung tung. Trước đây bệnh này chiếm tỉ lệ khá cao, có khi tới một nửa số ca sốt rét. Nay thì đã giảm nhiều, nhưng vào đầu mùa đông có khi vẫn chiếm tới một phần tư số ca sốt rét. Khi mắc bệnh nếu không chẩn đoán đúng rất dễ tụt huyết áp dẫn đến tử vong. Hiện nay, thuốc đặc trị bệnh này không còn hiếm như trước nhưng vẫn khá đắt. Qua theo dõi những trường hợp đã điều trị khỏi bệnh, chưa thấy có di chứng gì.

Rừng Pai-lin ngoài mìn sát thương và vi trùng sốt rét còn có một mối hiểm nguy khiến lính ta rất ngán là rắn hổ bướm. Đó là một loại rắn độc, hình dẹt ba cạnh, trên lưng có hoa hình con bướm. Loại này chỉ nhỏ như rắn lục nhưng độc hơn nhiều. Chúng nằm lẫn trong lá rừng, thường đớp vào chân. Cũng có khi vắt vẻo trên cành cây, người đi ngang thì đớp vào mặt và cổ. Mới đây, có một đồng chí đại uý ở Ban tác chiến bị rắn hổ bướm đớp nhưng không cứu chữa kịp thời nên đã tử vong. Hiện tại, ở trạm xá cũng có một chiến sĩ bị rắn hổ bướm đớp vào cổ chân, phải mổ rộng vết cắn để xử lý. Cơn nguy kịch đã qua nhưng cái chân vẫn cứng đơ, chưa co duỗi được.

Tiểu đoàn trưởng quân y là đại uý Hồng Nhật Hùng, quê ở thành phố Vinh-Nghệ An. Anh Hùng nhập ngũ năm 1972, ban đầu huấn luyện ở sư đoàn 341 đóng tại Bố Trạch-Quảng Bình, sau được đi học y tá rồi điều về Hải quân. Từ năm 1977 đến năm 1979, anh đã có mặt ở Sơn Ca và Phan Vinh của quần đảo Trường Sa. Giữa năm 1979, Hùng được vào bờ đi học chuyên tu bác sĩ, đến năm 1982 tốt nghiệp là sang Cam-pu-chia luôn từ đó đến nay. Năm 1986 về thành phố Hồ Chí Minh cưới một cô vợ làm ở xí nghiệp đông lạnh thuỷ sản, nay đã có một cháu gái ba tuổi…

Hùng kể: Trước đây ta thường chủ động mở chiến dịch vào mùa khô, còn địch thì thường chủ động quấy phá vào mùa mưa. Nhưng vài năm nay thì quanh năm có địch, quanh năm truy quét. Mùa nào cũng có những khó khăn vất vả riêng. Chẳng hạn như mùa mưa thì không phải lo lắng chuyện nước nôi cho thương bệnh binh. Tăng gia sản xuất để cải thiện cũng thuận lợi. Nhưng bệnh tật dễ phát sinh, muỗi vắt nhiều, việc vận chuyển thương bệnh binh cũng rất gian truân… Tiêu chuẩn bữa ăn của thương bệnh binh ở đây, ngoài mỗi ngày 900 đồng tiền Việt Nam, phía Bạn còn cho thêm từ 300 đến 500 riên. Nghe thế thì cao, nhưng thức ăn khan hiếm nên thất thường lắm. Có khi anh em vào đợt sau lại được ăn truy lĩnh cả tiêu chuẩn những người đã ra viện vì hồi đó không mua được thực phẩm… Từ đây ra chợ Phlau-mia chỉ độ dăm cây số, nhưng nằm trên trục đường lên bãi đá quý nên giá đắt đỏ kinh khủng. Chợ Bát-đom-boong cách những hơn sáu chục cây số, lâu lâu mới có một chuyến xe tải đi về…

Xuống trạm xá, ngồi đâu cũng nghe anh em kể chuyện sốt rét, bị phục kích, bị mìn phạt chân… Chuyện nào cũng thật thương tâm. Tháng trước, thiếu tá Châu Văn Nghĩa-phó trung đoàn trưởng E9-đi kiểm tra địa hình thì gặp địch phục kích. Các anh chiến đấu quyết liệt. Anh Nghĩa bị thương nặng, ra lệnh cho anh em rút còn anh thì ở lại chặn địch. Mọi người đề nghị cõng anh theo, Nghĩa cáu lên bảo rút ngay. Có người rơi nước mắt, Nghĩa động viên, dặn: chỉ nhờ anh em đồng đội giúp đỡ dựng cho vợ con một ngôi nhà. Bao nhiêu năm nay vợ con anh ở Cửu Long vẫn chưa có ngôi nhà riêng để ở…

Rồi chuyện anh em bị thương lạc đơn vị, vết thương nhẹ thôi nhưng giòi khoét thành nặng, có khi đơn vị tìm được thì đã vô phương cứu chữa. Có anh không bị thương, nhưng bị sốt rét quật ngã nằm há miệng mấy ngày giữa rừng. Ruồi nhặng bu quanh miệng đẻ trứng, sinh giòi. Lúc tìm được không ai để ý, về trạm xá thỉnh thoảng lại thấy giòi chui trong miệng ra…

Hỏi chuyện hai thương binh trẻ nằm chung một tấm sạp. Hạ sĩ Võ Hùng Sơn là lính trung đoàn 3, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh Tiền Giang. Sơn mồ côi bố, chỉ còn mẹ già. Nhà có 8 chị em, Sơn là con thứ năm và là con trai độc nhất, đi bộ đội tháng 2-1986. Ngày 28-4-1989, trong lúc đang truy kích địch thì Sơn bị một mảnh đạn cối phang vào chân. Vết thương chưa lành hẳn nhưng cu cậu có vẻ nhanh nhẹn hoạt bát lắm. Lúc nào cũng bảo: “Thế là em đã thành khỉ què”. Chẳng là cậu ta sinh năm 1968, cầm tinh con khỉ. Trung sĩ Phan Minh Châu nằm cạnh Sơn, người huyện Mỏ Cày-Bến Tre, hơn Sơn những sáu tuổi. Trước khi đi bộ đội, Châu đã là công an viên của xã. Hồi đó Châu chưa đi bộ đội là vì có anh trai đang chiến đấu ở Cam-pu-chia. Năm 1985 anh trai bị thương và phục viên, Châu được lệnh nhập ngũ. Tháng trước, trong một trận chiến đấu, tiểu đội của Châu đào hào lấn dũi vào sát trận địa của địch. Nghe tiếng xẻng xúc đất địch tập trung hoả lực bắn ra, anh em mình đánh trả quyết liệt. Châu mang theo 8 quả B45 đã bắn hết 6 quả. Một quả cối của địch nổ ngay sau lưng, Châu bị mảnh cối găm vào chân và lưng…

Châu cho biết: anh vừa nhận được tin cậu em trai ruột cũng đang chiến đấu ở Tà Sanh, nhưng không rõ ở đơn vị nào?

MAI NAM THẮNG (Còn nữa)
Pai-lin, mùa hạ cuối (kỳ 2)