Tôi quyết định xuống tiểu đoàn 1 thiết giáp trong thời gian chờ đi Pai-lin. Đơn vị “Quả đấm thép” trực thuộc Mặt trận 979 nên doanh trại nằm sát Bộ tư lệnh. Đại uý tiểu đoàn phó quân sự Lê Đức Dy và đại uý tiểu đoàn phó chính trị Nguyễn Minh Đức trực chỉ huy. Từ đầu năm đến nay đơn vị chủ yếu củng cố lực lượng và sẵn sàng chiến đấu, cũng huấn luyện, diễn tập bài bản như chương trình ở bên nước. Thỉnh thoảng cũng hành quân dã ngoại làm công tác vận động quần chúng, xây dựng địa bàn ở xã Xàm-rông, huyện Đôn-kao (tỉnh Cần-đan) gần đây thôi. Hoạt động giúp dân cũng làm đường, gặt lúa như hồi ở bên nước. Hỏi anh Đức: “Có kết nghĩa trường học không”. Trả lời: “Trường học bên này là nhà chùa luôn, nên không có cô giáo trẻ để… kết nghĩa đâu!”.

Tác giả (ngoài cùng bên phải) cùng đồng chí Lê Minh Trọng, cán bộ dân vận (giữa) và nhà báo Hồng Thanh Quang vượt suối Xăng-ke

Anh Đức giới thiệu cho mấy gương điển hình để hỏi chuyện. Thượng sĩ Vũ Ngọc Chiến là chiến sĩ lái xe vận tải, quê ở Đông Sơn-Thanh Hóa. Giá Kinh Quốc cùng đi thì đã gặp đồng hương? Chiến nhập ngũ tháng 9-1983, đúng vào thời gian tôi tạm biệt đơn vị ở Cam Lộ-Quảng Trị để ra Hà Nội học báo chí. Hết hạn nghĩa vụ quân sự đã lâu nhưng Chiến vẫn yên tâm phục vụ, có nhiều đợt phải lái xe chở hàng phục vụ chiến dịch liên tục nhưng không kêu ca gì. Đặc biệt Chiến là một tay lái vững, an toàn tuyệt đối nên chỉ huy đơn vị rất yên tâm tin tưởng mỗi khi giao nhiệm vụ. Tháng Sáu năm ngoái Chiến đã được kết nạp Đảng. Gương thứ hai là trung sĩ Nguyễn Văn Tám, trưởng xe tăng thuộc B5-C2, quê ở Cai Lậy-Tiền Giang. Tám nhập ngũ năm 1986, vừa rồi được bầu đi dự đại hội mừng công toàn Mặt trận và hiện đang là đối tượng kết nạp Đảng. Gương thứ ba là trung sĩ Nguyễn Long Hoàng, cùng học khóa đào tạo lái xe thiết giáp với Tám ở trường 700 (Long Thành-Đồng Nai). Hoàng cũng là đồng hương Tiền Giang với Tám nhưng ở huyện Châu Thành, có bố nguyên là Giám đốc sở điện lực tỉnh, chú và bác thì người là đảng viên, người là liệt sĩ. Con nhà nòi cách mạng như vậy nên đang học lớp 10 đã được kết nạp đoàn viên. Vào bộ đội việc gì cũng nhiệt tình, hăng hái, nhưng nổi bật nhất là tăng gia sản xuất. Sang bên này điều kiện khó khăn thế mà mỗi năm tổng cộng một mình cu cậu làm ra ngót một tấn rau xanh, bầu bí và dăm trăm cân heo, vịt. “Kế sách” tăng gia của Hoàng là học tiếng Khơ-me thật giỏi để đi xin cám, thóc lép về chăn nuôi và xin phân trâu bò về trồng rau. “Tương kế tựu kế”, đơn vị giao luôn nhiệm vụ đi làm dân vận để xin vỏ trấu ở trạm xay xát của xã Xàm-rông về làm chất đốt. Việc này cu cậu cũng đã hoàn thành rất xuất sắc.

Có điều, cả Hoàng và Tám đều từ chối đi học sĩ quan để phục vụ lâu dài trong quân đội, bảo: hết nghĩa vụ là ra quân thôi! Hỏi: “Không đi học sĩ quan thì có thể không được kết nạp Đảng?”. Cả hai đều nói rằng về quê kiếm được việc làm ổn định rồi sẽ tiếp tục phấn đấu vào Đảng.

4.Gặp Bạn ở Xàm-rông

Sáng 16-5-1989.

Tôi đề nghị anh em đơn vị đưa đi “dân vận”. Từ tiểu đoàn thiết giáp ra trụ sở xã Xàm-rông chỉ độ vài cây số, nhưng anh Đức dùng ô-tô tải dẫn hai nhà báo và một “thông ngôn” là cậu lính người đồng bằng sông Cửu Long biết chút tiếng Khơ-me, cùng đi.

Trụ sở xã là ngôi nhà cấp bốn, tường gạch, mái ngói vảy. Bàn ghế, đồ đạc bên trong sắp xếp bày biện cũng na ná như trụ sở các uỷ ban nhân dân xã bên ta. Chủ tịch xã tên là Tuốt-phươn, khoảng bốn mươi tuổi, thấp đậm, da ngăm, tóc xoăn, biết đôi chút tiếng Việt nhờ hồi lên Phnuôm-pênh học quản lý, được thầy giáo Việt Nam tên là Chương dạy cho. Anh cho biết toàn xã hiện nay có gần năm trăm nóc nhà, nhưng có tới 556 phụ nữ goá chồng vì bị Pôn-pốt sát hại. Gia đình bên vợ của anh có bảy người, chỉ sống sót vợ anh và bà mẹ già. Năm 1979 đánh nhau to, xã này tan hoang, dân tứ tán khắp nơi. Sau này mới trở về dựng nhà, làm ruộng. Hiện tại xã có một chi bộ bảy đảng viên, mỗi phum có một trung đội dân quân xấp xỉ ba chục người…

Anh Tuốt-phươn tỏ vẻ rất vui khi được dẫn các “Coong-tóp nhà báo” vào thăm chùa Tức-khma. Trong khuôn viên nhà chùa có một ngôi trường nhà cấp bốn xây trên nền đất hình chữ L. Giữa sân trường có cột cờ bằng gỗ, treo lá cờ in hình chùa tháp. Bốn phòng học là bốn lớp học sinh độ từ tám đến mười lăm tuổi, trông các cháu sạch sẽ, khoẻ mạnh. Lớp nào cũng chỉ thấy các thầy giáo chứ không có cô giáo. Học trò ồn nhao nhao nhưng các thầy có vẻ rất bình thản, không tỏ ra bẳn gắt gì cả!

Chùa chiền trong các làng ở Cam-pu-chia rất nhiều, hầu như làng nào ít cũng vài ba chùa. Mỗi ngôi chùa là một quần thể kiến trúc văn hóa đặc sắc và hầu như còn nguyên vẹn dù đã trải qua nhiều binh đao loạn lạc. Sư trụ trì chùa Tức-khma đi vắng, chú tiểu sốt sắng mở chùa mời vào xem. Nếu không đi cùng chủ tịch xã liệu có được vào không nhỉ? Trong chùa, các bức tranh, tượng, đồ thờ cúng… cũng bày biện sắp xếp tương tự như những chùa lớn bên Việt Nam, mặc dù nghe nói đạo Phật bên này có hơi khác bên ta một chút, gọi là Đại Thừa hay Tiểu Thừa gì đó, tôi không am hiểu lắm về nhà Phật. Điều khác rõ nhất là trong chùa có nhiều bức tranh và tượng vũ nữ trông rất phồn thực.

Nhà chùa mời ăn dừa. Một cậu thanh niên chừng mười sáu, mười bảy tuổi leo “bộ” thoăn thoắt lên đọt dừa, thả xuống bình bịch. Dừa trong chùa trái nhỏ, tưởng còn non, hoá ra đã già, sọ rất cứng, cùi rất dày, nhưng vẫn nhiều nước và không chua như tôi vẫn biết về loại dừa già xưa nay. Tôi thích ăn cùi nhưng họ chỉ mời nước. Đang xơi dừa thì nhà sư đi đâu trở về, còn khá trẻ, chắc chỉ ngoài đôi mươi một chút, nhưng Chủ tịch Tuốt-phươn có vẻ rất cung kính lễ phép. Nhà sư nói chuyện rất “quân vận”, khen bộ đội Việt Nam đủ điều, nhưng cũng hở ra một sự phàn nàn là bà con phản ánh thấy bộ đội xuống ao tắm là không tốt. Ở những đâu trên đất nước Cam-pu-chia khó khăn về nước nữa thì tôi chưa được biết, nhưng vùng này có lẽ nước là vấn đề gay cấn nhất trong cuộc sống, cả với nhân dân bản địa lẫn với bộ đội Tình nguyện. Sông ngòi phù sa đỏ ngầu. Nước ngầm rất ít và thường nhiễm mặn nên chẳng mấy nhà đào giếng, tất cả đều sống nhờ vào nguồn nước các ao hồ tự nhiên. Mùa khô, ao hồ cạn, cả làng chỉ còn vài cái lấp xấp nước, váng phèn đỏ quạch. Lạ một điều là trông ghê thế nhưng chẳng có mùi khó chịu, dùng nấu cơm ăn nước uống lâu ngày bụng dạ cũng quen đi. Buổi chiều tôi ra cái ao gần tiểu đoàn 1 để tắm, dùng xô lội xuống ao xách nước chạy lên một đoạn khá xa đứng dội. Dân làng từ trẻ tới già, trai lẫn gái đều làm như vậy. Thế mà có ông lính nhà ta thừa lúc vắng vẻ nhảy ùm xuống ao thì bà con phàn nàn kêu ca là phải!

Phòng chính trị Mặt trận gọi điện xuống, thông báo ngày mai sẽ theo trực thăng lên Pai-lin. Nghe nói có cả đại tá nhà văn Nguyễn Chí Trung cũng đi cùng. Thế là cơm chiều xong, tiểu đoàn lại cho xe tải chở hai nhà báo lên Bộ tư lệnh Mặt trận. Bữa cơm có “rờ tê xê” khá rôm rả. Bên này theo đạo Phật, không ăn thịt chó nên món này hơi sẵn, nhưng anh em tự sản tự tiêu là chính chứ không mua hoặc xin của dân. Rượu thì mua. Rượu thốt nốt trong vắt, êm. Ở đây bán rượu trong bịch ni lon trắng, mang về cho vào ca hoặc chai để rót cho dễ…

5.Hình dung mặt trận

Tuy buổi tối nhưng chúng tôi vẫn làm việc ban đêm với phòng chính trị sư đoàn 330 để nắm thêm tình hình, kịp sáng mai lên đường. Sau buổi làm việc, càng thấy việc chúng tôi chọn đi hướng Pai-lin của Bát-đom-boong là đúng!

Từ tháng 12-1988, tức là sau đợt rút quân Tình nguyện Việt Nam lần thứ bảy, địch tập trung hoạt động chủ yếu ở hướng Pai-lin và Tà-sanh. Đây là những vùng rừng núi hiểm trở, có con đường chiến lược 10B chạy từ Bát-đom-boong lên cửa khẩu 301. Tôi chưa kịp tìm hiểu ý nghĩa của cái tên toàn chữ số này.

Địch cho rằng với địa thế ấy, trong khi quân tình nguyện Việt Nam vừa rút đi, lại nhằm đúng dịp bắt đầu mùa mưa nên mở chiến dịch phản công là thuận lợi nhất. Ý đồ chiến dịch của chúng được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất chúng sẽ dốc sức tái chiếm toàn bộ khu vực Tức-sóc, Tà-sanh và ngã ba đường 10B, hòng tiêu diệt hai lữ đoàn chủ lực của Bạn và xây dựng bàn đạp. Sang giai đoạn hai, từ bàn đạp này, chúng sẽ chia cắt đường 10B, thực hiện chiến lược cục bộ, tiến tới làm chủ hoàn toàn Bát-đom-boong, xây dựng nơi đây thành một “căn cứ kháng chiến”.

Trong khi đó, trên các hướng ngoại biên chúng đang tập trung những lực lượng lớn mở những đợt phản công phối hợp với lực lượng trong nội địa, đưa một lực lượng xuống ém tại cơ sở để khống chế chính quyền cấp phum, xã. Trên thực tế, chúng đã chiếm được một số địa bàn ở ngã ba An Đông. Lữ đoàn chủ lực số 92 của Bạn đang bị tổn thất lớn. Tình thế buộc trung đoàn 2 rồi tiếp theo là trung đoàn 1, trung đoàn 3 của sư đoàn 330 quân Tình nguyện Việt Nam phải vào truy quét, chiếm lại những vùng bị mất và vực lại lữ đoàn 92 của Bạn. Từ đó đến tháng 5-1989, toàn bộ sư đoàn 330 phải đứng lại ở Pai-lin để tiếp tục giúp Bạn củng cố lực lượng, củng cố địa bàn… Tình hình đang khá dần lên!
MAI NAM THẮNG (Còn nữa)
Pai-lin, mùa hạ cuối (kỳ 1)