QĐND - Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ sinh ra, lớn lên ở Nghệ An, mãi sau này ra Bắc học tập và làm việc, thầy mới có cơ hội tiếp xúc thực tế với Quan họ Kinh Bắc, nhưng nếu ai may mắn được nghe thầy Vĩ hát một lần thì đều nhầm tưởng thầy mang gốc gác “liền anh, liền chị” ở Kinh Bắc.
Vào một buổi giữa tiết trời Hà Nội giá lạnh, ngồi thưởng thức ly trà nóng trong căn nhà ấm cúng của thầy Nguyễn Hùng Vĩ, chúng tôi nghe thầy kể về quá trình “xe duyên” mối tình giữa thầy với Quan họ. Dạo hát một đoạn Quan họ, rồi thầy kể: “Vào khoảng năm 1964, không rõ từ nguồn nào, trong tủ sách gia đình tôi, tận bên bờ sông Lam, lại có cuốn Dân ca Quan họ Bắc Ninh do nhóm Lưu Hữu Phước sưu tầm và giới thiệu. Sách đọc ngày xưa ở quê thì hiếm lắm nên có quyển nào là ngấu nghiến bằng hết. Tôi thấy kỳ lạ khi đọc các câu Thuyền thúng là thuyền thúng ơi, Lúng liếng là lúng liếng ơi… Ai đời vô tri vô giác như thuyền, hoặc khó nắm bắt như lúng liếng mà cũng gọi lên được”. Chính cái sự lạ đó khiến một đứa trẻ lớp hai như Nguyễn Hùng Vĩ băn khoăn mãi, muốn biết nó. Rồi sau vài năm, trong làng có vài cái ra-đi-ô, trưa trưa lại hát mấy bài dân ca, cứ nghe dân ca quan họ là Nguyễn Hùng Vĩ chú ý: “Khi đó trên đài người ta hát Quan họ theo phong cách nhạc mới, nào Bèo dạt mây trôi, Hoa thơm bướm lượn, Người ở đừng về… Nhưng thế là hay lắm rồi. Tôi nghe và thuộc luôn… Mãi sau này, khi đã nghiên cứu văn học dân gian, tôi mới học hát cho có “chất” một ít. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nghe những bài cũ của các nghệ sĩ như Thanh Huyền và Kiều Hưng hát vẫn rất xúc động. Nghe nhiều khi không phải bằng tai mà bằng ký ức, bằng tim, bằng trải nghiệm” - thầy Vĩ chia sẻ.
 |
| Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ. |
Năm 1975, khi đã là sinh viên năm thứ 3, Nguyễn Hùng Vĩ được nghe và xem quan họ tại Nhà hát Lớn Hà Nội, được tận mắt chứng kiến những màn biểu diễn kỳ diệu, như làm thỏa mãn sự tò mò của thầy: “Màn Đón bạn ngày xuân khiến tôi được gặp một ca sĩ khác hẳn quê tôi, sao mà họ ăn mặc đẹp đến vậy, mời chào ngọt đến vậy, hát hay đến vậy. Tôi mò mẫm học hát từ đó. Hồi mà thanh niên cả miền Bắc học hát cải lương thì tôi chỉ học hát dân ca Bắc Bộ thôi, trong đó có Quan họ” - thầy Vĩ nói.
Với thầy Nguyễn Hùng Vĩ, việc học hát là do sở thích, giống như yêu thích thể thao vậy. Nhưng từ đam mê hát đã bắc cầu cho thầy chuyển hẳn sang nghiên cứu nó.
Cần phải được hiểu đúng
Quá trình nghiên cứu về dân ca quan họ của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ có nhiều trăn trở, suy nghĩ. Cùng với Ca trù, Quan họ đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại nhưng hiểu về nó, dù nó được đầu tư nghiên cứu nhiều nhất so với các hình thức ca nhạc truyền thống khác, vẫn cần tiếp tục đi sâu hơn nữa. Trong khoa học, lớp sau thừa hưởng của lớp trước, nhưng cũng có khi người trước đi lệch hoặc phiến diện thì lớp sau phải chỉnh lại, phải bổ sung, đắp bồi để hiểu đúng hơn, tránh cực đoan. Thầy Vĩ tâm sự: “Trăn trở nhất là phải hiểu đúng nó. Phải hiểu đúng đã. Hiểu đúng rồi, sau đó muốn làm gì thì làm. Nhiều khi cũng là cơ may, như tôi, ngay từ những ngày đầu tiếp xúc với Quan họ dân gian, rồi đọc những tài liệu sưu tầm của những tiền bối, tôi thấy hát Quan họ chung cội nguồn với hát cửa quyền, hát cửa đình, thì Quan họ là hát cửa quan thôi, sau mới càng ngày càng phổ biến trên vùng Kinh Bắc xưa”.
Phải sau 30 năm lặn lội cổ thư, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ mới mò ra hai chữ “Quan họ” được nhiều lần ghi lại bằng chữ Nôm và bằng cả chữ quốc ngữ ở giữa thế kỷ XVIII. Giải nghĩa hai chữ đó mới sáng tỏ phần nào nguồn gốc của nó. Việc này đòi hỏi hướng tiếp cận mới để lý giải nguồn gốc, quá trình, đặc điểm và thực trạng hát Quan họ, bổ sung cho những người đi trước.
Suốt quá trình nghiên cứu, thỉnh thoảng khi viết lách, làm thơ, viết lời… thì sự ảnh hưởng của âm hưởng, nhạc điệu Quan họ vào các tác phẩm của Nguyễn Hùng Vĩ là chuyện thường thấy, với thầy Vĩ, không phải cứ có lời lục bát là bẻ được thành bài Quan họ. Phải hát nhuần nhị một bài nào đó và phải tương đồng về tình cảm, cảnh huống, phải ngấm cái "độc chiêu" của buông tiếng nhả lời, phải có một “bộ” ngôn ngữ riêng thì may ra mới viết được một bài Quan họ, nếu không sẽ rất gượng ép, buồn cười…, hát lên nghe như nhai phải sạn, nhất là những lúc ngồi vào canh hát, khi đó nó thôi thúc lòng đam mê mạnh mẽ.
Một số người cho rằng hiện tại, với sự ra đời của nhiều dòng nhạc theo đủ hướng mục đích kinh doanh, nhạc thị trường, phần nào có thể ảnh hưởng đến lượng khán giả dành cho Quan họ, khiến Quan họ có nguy cơ bị mất vị trí, nhưng thầy Nguyễn Hùng Vĩ khẳng định ngược lại: “Cùng tồn tại trong một thực thể văn hóa. Mà thực thể văn hóa thì luôn luôn vận động. Thơ bút tre có ảnh hưởng đến độc giả đọc "Truyện Kiều", đọc Lý Bạch không? Hai chuyện đó khác nhau. Quan họ có vị trí riêng và nhạc thị trường có vị trí riêng, cùng tồn tại trong xã hội ngày nay. Ai thích gì thì theo cái ấy. Nhạc thị trường tồn tại đi vài ba trăm năm thì cũng có những tác phẩm trường tồn thôi. Có thể 17 tuổi thích cái này nhưng 50 tuổi lại thích cái khác. Những gì có giá trị thì sẽ tồn tại lâu dài. Nếu được đề nghị, tôi sẽ đề nghị nhân dân hãy hát Quan họ nhiều hơn nữa vì khi hát nó, con người ta tử tế hơn nhiều, vui hơn nhiều và tâm hồn thanh thoát hơn nhiều. Còn nhăm nhe cãi nhau thì làm gì có hạnh phúc. Thật tội nghiệp cho một cộng đồng không biết hát”.
Suốt quá trình mày mò nghiên cứu về Quan họ, với giảng viên Nguyễn Hùng Vĩ có rất nhiều khoảnh khắc và kỷ niệm sâu sắc đáng nhớ. Một trong những dấu ấn với Quan họ, đó là kỷ niệm ba bốn năm trời giúp các cụ làng Lim tái lập lại không gian hát Quan họ trên một trong những nơi quan trọng sản sinh tục hát này. Được ăn ngày nằm đêm với dân, được vất vả cho một mục đích tốt đẹp và công việc có hiệu quả. Ngoài ra, Nguyễn Hùng Vĩ còn được các anh chị khóa 1 Quan họ thương yêu trong hoàn cảnh cực kỳ đói kém cũng là kỷ niệm không thể nào quên. Qua đó cho thấy, những đóng góp của Đoàn dân ca Quan họ mang lại một giá trị quyết định cho việc bảo lưu hát Quan họ cho đến ngày nay.
Để phát huy, bảo tồn Quan họ
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ khẳng định, việc đưa Quan họ trở thành môn học trong trường học là một cách làm hiệu quả để phát huy và bảo tồn giá trị phi vật thể này. Mỗi trường học ở Bắc Ninh cần có một lớp Quan họ, có thể bắt đầu áp dụng từ trung học cơ sở cho đến đại học. Những em có năng khiếu, người lớn nên định hướng cho các em theo học lớp này, còn lại là khuyến khích. Nhìn chung, mỗi trường học chỉ cần một lớp tự chọn theo sở thích là đủ, không cần nhiều về mặt số lượng lớp học cũng như người học, số lượng ít nhưng chất lượng tốt mới là quan trọng, làm như vậy vừa tốt cho thầy dạy, vừa tốt cho cả trò học, lại không làm nặng chương trình. Còn trên phạm vi cả nước, việc bảo tồn đã là trách nhiệm của thể chế. Ngành văn hóa nghệ thuật nên có các lớp bảo tồn, phát huy văn hóa phi vật thể, tuyển sinh rất ít nhưng là tinh hoa, thầy và trò có ưu đãi đặc biệt, không cào bằng với các nghệ thuật dịch vụ và thị trường. Đối với dân, để bảo tồn và phát huy Quan họ phải dựa trên sự mong muốn và niềm đam mê, sự tự nguyện của nhân dân, nhân dân phải được tôn trọng, được khuyến khích, nếu cần thiết thì có thể giúp đỡ: “Chúng ta không nên can thiệp một cách cứng nhắc và cụ thể quá. Hát là quyền và đam mê của từng người. Đam mê là để sống đẹp hơn, tốt hơn, hạnh phúc hơn trong lòng cộng đồng. Từng người chịu trách nhiệm về đam mê của mình, làm sao để mọi người được tự do thoải mái hát, thế là thành công rồi!” - thầy Vĩ chia sẻ.
Vùng Kinh Bắc càng tự hào hơn khi có những di tích lịch sử văn hóa cổ kính, đền chùa độc đáo cùng làn điệu dân ca Quan họ đậm chất trữ tình, mang đậm bản sắc thuần Việt. Bằng tình yêu và niềm đam mê với Quan họ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ càng ý thức được trách nhiệm của mình trong việc góp phần gìn giữ cái hay, đẹp của Quan họ, phát huy các giá trị của di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ðúng như mô hình bảo tồn mà tổ chức UNESCO đề xướng: Bảo tồn tốt nhất là trong cộng đồng, trong chính môi trường diễn xướng của dân ca Quan họ. Hơn ai hết, chính cộng đồng sở hữu di sản phải ý thức được giá trị sản phẩm văn hóa của mình để rồi gìn giữ, phát huy và nhân rộng. Và chỉ khi nhân dân nhận thức đầy đủ được vai trò, ý nghĩa quan trọng của di sản thì họ mới có những hành động cụ thể, thiết thực để bảo tồn di sản hiệu quả nhất.
Bài và ảnh: TẤT THẮNG