Sống cùng ô nhiễm
Sơn La hiện là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất vùng Tây Bắc với khoảng 12.000ha, tập trung chủ yếu ở thành phố Sơn La và 2 huyện Mai Sơn, Thuận Châu. Cà phê được mệnh danh là cây “xóa đói, giảm nghèo”, song toàn tỉnh Sơn La chưa có một nhà máy chế biến chuyên sâu cà phê được xây dựng. Các doanh nghiệp chế biến cà phê trên địa bàn chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, hoặc các hộ sản xuất nhỏ lẻ với công nghệ lạc hậu nên việc xả thải ra môi trường vẫn tiếp diễn từ nhiều năm nay mà chưa tìm được giải pháp xử lý triệt để.
Ông Quàng Văn Tính, một người dân trồng cà phê tại bản Phiêng Tam, xã Chiềng Đen, thành phố Sơn La, cho biết: “Bắt đầu từ tháng 9, 10 đến tháng 1 năm sau là cao điểm trong thu hoạch và chế biến cà phê. Hiện tại, mỗi năm gia đình tôi chế biến khoảng 1.000-2.000 tấn cà phê, chủ yếu bằng phương pháp ngâm ủ và rửa bằng nước để tách vỏ cà phê. Nước thải trong quá trình chế biến chỉ được xử lý bằng cách đào hố tại vườn nhà, sau đó múc đem tưới lại cho cà phê”.
Ông Đặng Quốc Tuấn, chủ cơ sở chế biến cà phê lớn nhất xã Bon Phặng, huyện Thuận Châu, với công suất lên đến 40 tấn/ngày cũng cho biết, vào mùa cao điểm thu hoạch cà phê, các cơ quan chức năng liên tục kiểm tra về môi trường nhưng lại không hướng dẫn người dân phương pháp xử lý nước thải triệt để, giúp bà con yên tâm sản xuất. Các cơ quan chức năng chỉ hướng dẫn bà con bằng việc đào hố xong láng xi măng hoặc mua bạt lót chống thấm để tránh thẩm thấu nước thải ra môi trường. Tuy vậy, đây chỉ là giải pháp tạm thời, bởi các hố thải với màu nước đen đặc vẫn bốc mùi rất khó chịu. Nhiều hộ sản xuất lớn phải dùng xe bồn đi mua nước từ nơi khác về ngâm ủ, tách vỏ, khiến giá thành đội lên nên người dân luôn mang tâm lý xả “chui” và làm nhanh không lại bị… phạt.
Hệ thống ngâm ủ, tách vỏ hạt cà phê thô sơ của người dân tại xã Chiềng Đen, TP Sơn La gây ô nhiễm.
Hiện tại, hầu hết các cơ sở lớn, nhỏ ở Sơn La với công suất có thể tới hàng trăm tấn/1 ngày đêm từ lâu đều chế biến theo phương pháp ướt, tức là ngâm ủ rồi rửa nước. Mỗi tấn cà phê tươi tiêu thụ từ 2-4m
3 nước. Việc sơ chế không đúng quy trình, máy móc thô sơ, không đầu tư hệ thống xử lý nước thải đã khiến môi trường ngày càng ô nhiễm. Nghiêm trọng hơn, việc các cơ sở sản xuất, chế biến cà phê tự ý xả nước thải ra môi trường đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước cung cấp cho Xí nghiệp Cấp nước số 1 Sơn La. Bởi những cơ sở này đều đóng tại khu vực đầu nguồn nước của nhà máy, nên nước thải cà phê đã chảy vào nguồn nước ngầm và ảnh hưởng đến chất lượng nước tại nhà máy.
Hy vọng từ công nghệ mới
Tỉnh Sơn La đã thực hiện nhiều biện pháp “mạnh tay” như đình chỉ hoạt động các cơ sở ô nhiễm, song tình trạng này vẫn tiếp tục tái diễn.
Để khắc phục tình trạng này, hiện tại, Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Chuyển giao công nghệ thuộc Đại học Tây Bắc đang nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Pilot sử dụng chế phẩm sinh học trong xử lý nước thải cà phê. Hệ thống này được thiết kế với quy mô xử lý từ 3-4m3/ngày đêm để phù hợp với từng hộ gia đình. Theo ông Nguyễn Đình Thoại, giảng viên Khoa Sinh-Hóa, Đại học Tây Bắc, trưởng nhóm nghiên cứu, toàn bộ hệ thống sẽ bao gồm 14 bể, mỗi bể có dung tích 200 lít, sử dụng công nghệ hiếu khí là chủ yếu kết hợp với việc tạo màng sinh học. Trong bể hiếu khí không sử dụng bùn hoạt tính lơ lửng như dạng truyền thống vẫn làm, mà dùng những tấm lưới nhựa được bông hóa tạo thành các cột có diện tích khá lớn để vi sinh vật phát triển trên đó với mật độ dày. Hệ thống sẽ tiếp tục làm bão hòa nồng độ ô-xi bằng việc dùng máy sục để tăng nồng độ không khí có trong nước khiến vi sinh vật phát triển nhanh chóng, góp phần xử lý tối đa các chất hữu cơ có trong nước thải cà phê. Trong quá trình xử lý, khối vi sinh vật già sẽ bung ra, rơi xuống và tách khỏi dung dịch nước. Các khối vi sinh vật này sẽ được thu gom để sử dụng làm phân bón.
Ưu điểm của công nghệ này khi được áp dụng là hoàn toàn không sử dụng hóa chất, tránh được ô nhiễm thứ cấp và nước thải sau xử lý hoàn toàn có thể đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra sông, suối phục vụ tưới tiêu, thậm chí với những địa bàn phải mua nước hoàn toàn có thể sử dụng nguồn nước phục vụ tái sản xuất.
Tuy nhiên, theo ông Quàng Văn Hiến, Trưởng bản Phiêng Tam, xã Chiềng Đen, điều mà người dân lo lắng nhất hiện nay trước khi áp dụng công nghệ vào thực tiễn đó là việc chi phí lắp đặt và vận hành hệ thống. Giải thích về điều này, ông Thoại cho rằng, với việc áp dụng công nghệ sinh học thì giá thành lắp đặt sẽ không quá cao bởi không sử dụng nhiều hóa chất.
Theo quy hoạch của tỉnh Sơn La, đến năm 2020, diện tích cà phê sẽ tăng lên khoảng 13.000ha, sản lượng cà phê nhân đạt 24.000 tấn/năm, như vậy, nếu không có hệ thống nước thải thì áp lực lên môi trường là rất lớn. Hy vọng rằng, với việc áp dụng hệ thống xử lý nước thải Pilot sử dụng công nghệ sinh học sẽ là một giải pháp hữu hiệu góp phần bảo vệ môi trường và mang lại giá trị thiết thực từ cây cà phê tại Sơn La.
Trong tháng 10-2015, dù mới bước vào đầu vụ cà phê, Xí nghiệp Cấp nước số 1 Sơn La đã phải dừng sản xuất 4 lần do nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề. Vào ngày 15-11-2015, xí nghiệp lại tiếp tục phải dừng hoạt động 3 ngày để xử lý sự cố do nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải cà phê. Sự việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 11.000 hộ dân sử dụng nguồn nước trên địa bàn thành phố Sơn La. |
Bài và ảnh: NGUYỄN CƯỜNG