QĐND Online – Cách Đại Bái chừng hơn cây số, đồ đồng mỹ nghệ đã xuất hiện tại nhiều cửa hiệu. Dọc hai bên con đường liên thôn chạy qua làng, chậu đồng, xoong đồng… được bày la liệt; trên tường hiên, tường nhà mỗi hộ dân là những bức tranh chữ, tranh phong cảnh, hoành phi, câu đối… đủ kích cỡ, kiểu loại. Cả con đường nhộn nhịp bởi tiếng thúc khuôn, tiếng chạm tỉa lách cách. Với những du khách từ xa đến, ít ai biết rằng, những màu sắc, âm thanh ấy đã gắn với ngôi làng này hơn một nghìn năm nay…

Một cửa hàng bán đồ đồng mỹ nghệ ở Đại Bái

Từ nồi, mâm, siêu, chậu đến đồ mỹ nghệ

Xã Đại Bái (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) có 3 làng: Ngọc Xuyên, Đoan Bái, Đại Bái, thì chỉ duy nhất có làng Đại Bái làm nghề đồng. Làng nghề có bề dày truyền thống, đó là điều mà người làng Đại Bái vẫn thường tự hào khi nói về quê hương mình, nơi có nghề đúc đồng được hình thành từ rất sớm - năm 998. Ban đầu làng có bốn phường nghề: nồi, mâm, siêu, chậu. Mỗi phường nghề sản xuất mặt hàng tương ứng với tên gọi của mình. Ngay từ thời Pháp thuộc, hàng truyền thống của làng đã vượt biển đến với nước Pháp xa xôi, được trưng bày tại thành phố Marseille. Cách đây chừng một trăm năm, người làng nghề bắt đầu chạm khảm đồ tam khí (vàng, bạc, đồng). Đó cũng là mốc đánh dấu thời điểm người làng đến với mặt hàng mới- đồ mỹ nghệ đồng.

Chúng tôi có mặt tại xưởng của anh Vũ Văn Bằng khi anh cùng nhóm nhân công đang thúc khuôn tranh. Anh Bằng tâm sự, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, điều anh nghĩ ngay đến là phải tìm cho mình một cái nghề. Và cũng như bao thanh niên khác trong làng, anh quyết định đi theo nghề làm đồng truyền thống. “Số vốn ban đầu của hai vợ chồng trẻ chúng em là năm triệu đồng do đoàn thanh niên xã cho vay theo chương trình hỗ trợ đoàn viên thanh niên phát triển kinh tế gia đình và hơn 50 triệu đồng vay được của họ hàng. Sau đó, khi đã có mô hình sản xuất, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho vay lần thứ nhất 25 triệu. Đến khi đáo hạn, em được vay tiếp 50 triệu”- Bằng kể về quá trình tìm vốn sản xuất của mình như vậy. Hiện nay, mặt hàng của gia đình anh sản xuất là tranh chữ và tranh phong cảnh (đây là những mặt hàng tiêu tốn ít nguyên liệu đồng, phù hợp với các hộ có nguồn vốn khiêm tốn). Bạn hàng của anh chủ yếu đến từ Hà Nội, Bắc Giang, Phú Thọ và một số ít ở miền Trung. Hiện, Bằng đang thuê 3 công nhân với mức lương từ 1,5 đến 2,5 triệu đồng/người/tháng, tùy theo tay nghề. “Cách đây 2 tháng, em đã mở một cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm gần đơn vị cũ là trường Sỹ quan lục quân I. Sở dĩ em lựa chọn khu vực này bởi đây là nơi có cán bộ từ nhiều vùng miền về học tập, công tác. Khi hàng của mình được họ chọn mua, cũng có nghĩa là nó sẽ có điều kiện được quảng bá tại nhiều địa phương”- Với cách tiếp thị này, Bằng tin trong thời gian tới sẽ có nhiều khách hàng mới đến với xưởng của anh.

Cách xưởng của Bằng chừng hơn hai chục mét là xưởng của gia đình chị Nguyễn Thị Chuyên. Với số vốn gần 400 triệu (như chị giới thiệu) nên các sản phẩm của gia đình chị cũng đa dạng hơn về chủng loại và giá thành. Chị Chuyên cho biết: “Các mặt hàng của gia đình tôi có giá trị từ hơn 100 nghìn đến trên dưới 4 triệu đồng. Những mặt hàng có giá trị cao hơn thì làm theo đơn đặt hàng của khách”. Hàng chị bán được nhiều nhất vẫn là tranh chữ. Trong một năm, mùa bán hàng chạy nhất là từ tháng 9 âm lịch năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau, bởi đó là thời điểm có Tết nguyên đán nên nhu cầu chơi đồ mỹ nghệ của khách cũng tăng.

Ở Đại Bái, ngoài đồ mỹ nghệ, những mặt hàng truyền thống xưa nay như nồi, chậu, ống đồng vẫn có sức tiêu thụ khá lớn. Và không chỉ có đồng, nhiều hàng hóa phục vụ dân sinh bằng gang, nhôm cũng được sản xuất tại đây.

Chế tác sản phẩm tại một xưởng sản xuất

Mừng, lo xen lẫn

Trao đổi với ông Đinh Gia Khoa, Phó Chủ tịch UBND xã Đại Bái, chúng tôi được biết, hiện nay, trong tổng số gần 1.500 hộ của làng Đại Bái, có đến 1.200 hộ vẫn đang kiên trì với nghề truyền thống. Cả làng có khoảng 30 công ty, hợp tác xã và doanh nghiệp làm nghề này. Thu nhập của người làm nghề dao động từ 1 triệu đồng đến 2,5 triệu đồng/tháng.

“Rất phấn khởi là hiện nay ngoài các mặt hàng phục vụ dân sinh và các mặt hàng mỹ nghệ, có những hộ đã tìm được đầu ra cho các sản phẩm mới như lõi khóa… Trình độ tay nghề của bà con cũng đã được khẳng định tại các kỳ hội thi nghề Đông Nam Á. Nhiều người đã đạt giải “Bàn tay vàng” tại hội thi này như ông Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Tấn Đích…”- ông Khoa cho biết.

Giữ được nghề do ông cha để lại và tạo được thu nhập ổn định cho bà con từ nghề truyền thống, đó là niềm vui của bà con cũng như các cấp chính quyền. Tuy nhiên, nỗi lo cũng không ít. Theo ông Khoa, khi kinh tế thế giới đã dần hồi phục sau suy thoái, sức sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của làng nghề tuy đã dần lấy lại đà, nhưng hiện nay, sự cạnh tranh của các sản phẩm đồng mỹ nghệ đến từ Trung Quốc và một số nước khác trong khu vực đối với sản phẩm của làng nghề rất khốc liệt. Hàng của họ tuy đắt, nhưng bù lại hình thức nhìn chung vẫn hấp dẫn hơn hàng hóa của làng nghề, đó cũng là một ưu thế trong cạnh tranh, nhất là khi điều kiện kinh tế của người dân ngày nay đã được cải thiện đáng kể.

Hiện nay, phần nhiều bà con làng nghề vẫn chỉ thực hiện các đơn hàng với những đối tác ở các tỉnh, thành ngoài Bắc, chứ chưa có nhiều hộ đưa được hàng hóa của mình đến các thị trường xa hơn, như miền Trung hay miền Nam. Theo ông Khoa, tại thời điểm hiện nay không có doanh nghiệp hay hộ sản xuất nào đưa được hàng hóa của mình vượt ra khỏi biên giới quốc gia. “Cách đây vài năm, có một gia đình cũng đã xuất được mặt hàng nồi đến Châu Phi. Nhưng tính đến nay, đó vẫn là hộ duy nhất ở Đại Bái đưa được hàng truyền thống ra thị trường ngoài nước. Và đó vẫn là lần duy nhất hàng của làng được …đi nước ngoài”- ông Khoa tâm sự.

Ô nhiễm môi trường do sản xuất cũng đang là nỗi lo canh cánh của người dân nơi đây. Nhất là ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay, ở làng có khoảng 300 lò nấu kim loại (đồng, gang, nhôm…) từ đồ phế liệu. Ngần ấy lò hoạt động, lượng khí độc thải vào không khí không hề nhỏ; chất thải phát sinh trong quá trình mài, rửa, sơn phủ sản phẩm cũng đều được xả trực tiếp ra môi trường xung quanh. Vì ô nhiễm đã lên đến mức báo động, nên hàng năm ở Đại Bái đều có các đoàn về kiểm tra, đo thử mức độ ô nhiễm môi trường.

Nhằm tạo ra nơi sản xuất quy củ hơn cho làng nghề, vừa qua, xã cũng đã triển khai xây dựng “Cụm công nghiệp làng nghề Đại Bái” với 164 lô đất (mỗi lô có diện tích từ 100 đến 1.000m2). Đến nay, toàn bộ số lô đất trên đã được người làng nghề thuê với thời gian sử dụng là 50 năm. Mức giá từ 18 đến 21 triệu đồng/100m2, tùy theo vị trí của lô đất. Để giải quyết vấn đề xử lý chất thải tại cụm công nghiệp này, một cơ quan khoa học ở Trung ương đã tài trợ hệ thống xử lý nước thải trị giá 200 triệu đồng. “Trang thiết bị xử lý chất thải đã có, song hiềm một nỗi bà con ra sản xuất tại đây vẫn còn quá ít nên họ cũng chưa đóng tiền xử lý chất thải. Trong khi đó, để vận hành hệ thống này, đòi hỏi phải có kinh phí chi trả cho nhân công, chi phí mua hóa chất xử lý… mà xã cũng không có khoản nào chi cho nội dung này. Bởi thế, tuy là cụm công nghiệp đấy, song chất thải vẫn chưa được xử lý đúng quy trình”- ông Khoa than thở.

Trước khi chia tay, như sực nhớ ra một “sáng kiến” mới của địa phương, ông Khoa vui vẻ cho biết: “À, chúng tôi cũng đang xúc tiến để cho ra đời trang web giới thiệu về làng nghề. Hy vọng, thông qua kênh thông tin này, nghề đúc đồng Đại Bái sẽ được quảng bá rộng rãi hơn đến mọi người”.

Ghi chép của Phúc Thắng-Hoàng Hà