QĐND - Một ngày cuối tháng 12, chiếc xe ô tô “hai cầu” Pajejo của Ban Quản lý dự án Đường tuần tra Biên giới (Ban QLDA 47) đưa chúng tôi vượt hành trình hơn nửa nghìn cây số vào tới tuyến thi công tại huyện Kỳ Sơn, Nghệ An. Biên giới miền Tây xứ Nghệ mùa này sương giăng trắng núi rừng, bản làng, trên dãy núi Phu Xai Lai Leng cao nhất Bắc Trường Sơn (hơn 2.700m), những người lính thi công tuyến đường Tuần tra biên giới (TTBG) vẫn đang “vượt nắng, thắng mưa” để gấp rút hoàn thành. Những nụ đào rừng đã bắt đầu bung cánh, một mùa xuân sớm đang về nơi đây…
Dải lụa giữa lưng trời
Vừa qua thị trấn Mường Xén, trung tâm huyện lỵ Kỳ Sơn (Nghệ An), Trung tá QNCN Phạm Hữu Song, cán bộ lái xe của đoàn đã nói với tôi: “Sắp tới đoạn đường “xấu” rồi đấy, nhà báo nhớ bám chắc không lại va đầu vào thành xe”. Anh Song là người đã có thâm niên 30 năm lái xe trong quân đội tâm sự rằng, 10 năm về công tác tại Ban QLDA 47 đã cho anh quá nhiều trải nhiệm với những cung đường TTBG ở những nơi xa xôi, hiểm trở nhất trên đất liền nước ta. Lần này, trước khi lên đường tham gia chuyến công tác, mấy đồng chí ở Ban QLDA 47 đã giới thiệu với tôi sẽ được chinh phục đỉnh Phu Xai Lai Leng, "nóc nhà" của miền Tây Nghệ An. Khi tôi hỏi tại sao lại gọi là "nóc nhà" thì anh em bộ đội giải thích rằng, Phu Xai Lai Leng là một ngọn núi trên dãy Trường Sơn Bắc. Ngọn núi có đỉnh cao 2.720m và nằm trên biên giới giữa tỉnh Nghệ An của Việt Nam và tỉnh Xiêng Khoảng của nước bạn Lào. Đây là một trong các đỉnh cao vượt trội, nghĩa là cao hơn so với địa hình xung quanh từ 1.500m trở lên tại Đông Nam Á. Dãy Phu Xai Lai Leng đồ sộ như một bức trường thành hùng vĩ, trong đó đỉnh núi thuộc địa phận xã Na Ngoi (Kỳ Sơn). Phu Xai Lai Leng là đỉnh núi thiêng của cộng đồng các dân tộc miền Tây Nghệ An. Đồng bào dù đi săn bắn, làm ăn ở Việt Nam hay sang Lào, mỗi khi nhìn thấy đỉnh Phu Xa Lai Leng đều biết đường để tìm về… Còn với bộ đội đi thi công tuyến đường TTBG nơi đây, để ngắn gọn và dễ nhớ, các anh gọi đó là đỉnh “Phù Xai”.
 |
Đường Tuần tra biên giới chạy qua xã Mường Ải góp phần thay đổi diện mạo và cuộc sống của bà con nơi đây.
|
Quả thật, con đường từ thị trấn huyện đi qua Thủy điện Nậm Mô lên xã Mường Típ đầy những sống trâu, hố voi và những viên đá tảng lăn lóc giữa đường. Sau hơn ba chục ki-lô-mét đường đất dốc lên đổ xuống, chúng tôi rẽ vào đoạn đầu của tuyến TTBG, một cảm giác thay đổi hoàn toàn khác. Giữa rừng già miền biên viễn, ẩn trong làn sương mù dày đặc, con đường bê tông rộng 3,5m, độ dày 18cm như dải lụa vắt ngang qua từng sườn đèo khiến chiếc xe đang xóc nẩy chồm lên bỗng êm ru lăn bánh. Một bên đường là taluy dương dựng đứng thành vại, bên kia là những cột phòng vệ ngăn cách xuống bên dưới vực sâu hun hút. Tận hưởng con đường êm ái quanh co trên độ cao 2.000m, chúng tôi mới càng thấm thía công sức, mồ hôi bộ đội đã đổ xuống bao ngày qua. Đại tá Đồng Văn Phương, Trưởng phòng thi công 2 (Ban QLDA 47) phụ trách quản lý thi công khu vực miền Trung, chia sẻ, tuyến đường TTBG Mường Típ thuộc gói L8-L10, dài 43,15km, đi qua địa bàn 3 xã của huyện Kỳ Sơn là Mường Típ, Mường Ải và tiếp giáp nối vào đoạn đường L10-L11 của xã Na Ngoi. Dự án đến nay đã cơ bản hoàn thành, đã nghiệm thu cơ sở và dự kiến đầu tháng 1-2016 sẽ bàn giao cho địa phương. Còn dự án Na Ngoi L10-L11 có chiều dài 35km, hiện đổ bê tông khoảng 20km, đoạn cao nhất của đường nằm trên độ cao 2.550m, dự kiến quý II-2016 sẽ nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng. Các đơn vị thi công chính của hai tuyến đường gồm: Các công ty thuộc Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn; Công ty 789 (Bộ Tổng tham mưu); Công ty Trường Thành; Công ty 705 (Quân khu 2); Lữ đoàn Công binh 414 (Quân khu 4); Công ty Hà Đô 23…
Hôm chúng tôi đến, Phó chủ tịch UBND huyện Kỳ Sơn Mùa A Sử bắt tay tâm sự nhiều lắm. Ông Sử nói rằng, Kỳ Sơn là một trong những huyện xa xôi, khó khăn nhất của tỉnh Nghệ An, trong đó hiện vẫn còn 12 xã chưa có điện lưới. Tuyến đường TTBG mở qua các xã vùng sâu, giáp biên không chỉ mang ý nghĩa chính trị, quốc phòng, an ninh mà còn khiến cho cuộc sống của bà con nhân dân các dân tộc đỡ đi nhiều khó khăn, vất vả. Đặc biệt có giao thông thuận lợi, hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa và cả việc học hành của trẻ em cũng sẽ tốt hơn nhiều.
Trên cung đường mới bon bon, chúng tôi dừng xe trước Điểm trường mầm non Ai Khê, xã Mường Ải. Thầy giáo Hoa Bá Thêm, người dân tộc Khơ Mú đang cho các cháu nhỏ vui chơi ngoài sân, thấy có đoàn đến, các cháu mầm non người Mông, người Khơ Mú còn chưa nói sõi tiếng phổ thông nhưng nhất loạt đứng dậy khoanh tay chào. Thầy Thêm tâm sự: “Trước đây, khi đường TTBG chưa làm qua đây, chúng tôi đến trường phải đi hàng chục ki-lô-mét đường đất, mùa mưa lầy lội, mùa khô thì bụi mù ngạt thở. Ngay cả các cháu học sinh đi học cũng vất vả lắm. Từ ngày thông tuyến đường tuần tra qua đây, thầy trò và cả bà con đi lại thuận tiện. Trường tôi nằm cạnh đường, các cháu hết giờ học còn có thêm cả một "khoảng sân" dài, rộng, sạch sẽlà con đường để vui chơi”.
Nơi cơm nấu không chín, nước đun không sôi
Chúng tôi đến trạm nghỉ của Lữ đoàn Công binh 414 (Quân khu 4) nằm trên độ cao gần 2.000m vào đúng bữa trưa. Gọi là trạm chứ thực ra đây chỉ là mấy gian nhà được thưng bằng gỗ, bạt nằm cheo leo trên một đoạn đèo thuộc tuyến đường TTBG Mường Típ. Anh em bộ đội đang chuẩn bị bữa ăn. Trung úy Phạm Đức Nga, người huyện Thanh Chương đang hì hục đảo nồi cơm to bốc khói nghi ngút trên bếp. Nhìn anh nấu ăn mà tôi lại nghĩ đến mấy câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đức Lợi: “Đồn ở trên độ cao 2.000 mét/ Suốt mùa đông chẳng ăn chín bao giờ/ Đun trên bếp cho đến khi cháy khét/ Bắc nồi ra cơm hóa gạo trơ trơ”. Anh Nga chia sẻ: “Khó khăn vất vả nhất với chúng tôi trong quá trình thi công đường chính là mùa đông khi nhiệt độ thường xuyên dưới 10 độ C, có lúc xuống đến 0 độ C. Không chỉ lạnh, vì ở trên cao nên gió mạnh, nhiệt độ sôi của nước chỉ khoảng 80 độ C, cơm nấu không chín, nước pha chè cũng không ngấm được là chuyện thường. Ở đây cách xa khu dân cư nên muốn mua thức ăn hay đồ dùng sinh hoạt, bộ đội thường phải chạy xe máy hoặc gửi xe tải hơn 70km ra tận thị trấn Mường Xén. Mùa đông, thỉnh thoảng các anh mua một con lợn về mổ, thịt ăn không hết cứ bỏ vào chậu nước lạnh, sáng hôm sau băng đóng váng trên mặt chậu, thế là thành “tủ cấp đông” bảo quản thịt luôn”.
Giai đoạn 2006-2010 và 2014-2016, Ban Quản lý dự án và các lực lượng tham gia xây dựng Đường TTBG đã triển khai 186 gói thầu xây dựng, với tổng chiều dài 1.482km; trị giá xây dựng đã thực hiện 9.400 tỷ đồng (lũy kế giá trị đầu tư thực hiện 10.700 tỷ đồng/11.250 tỷ đồng = 95% tổng mức đầu tư). Thi công mặt đường bê tông xi măng 1.365km; đã bàn giao cho địa phương đưa vào khai thác sử dụng 1.200km thuộc 36 dự án, phân đoạn bảo bảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả.
|
Rời Mường Típ, chúng tôi đi vòng ngót 100km sang Na Ngoi để đi tiếp lên điểm cao nhất của tuyến đường TTBG. Do thời tiết xấu, mưa mù cùng nhiệt độ thấp khoảng 3 độ C nên quá trình di chuyển của đoàn gặp nhiều khó khăn. Bữa ăn tối tại trạm “văn phòng” của Ban QLDA 47 ở Na Ngoi có 3 cô giáo ở trường mầm non xã lên phụ nấu ăn. Cô Nguyễn Thị Thắm, người ở huyện Anh Sơn lên đây hơn 1 năm tâm sự: “Bọn em ở đây thấy các anh bộ đội vất vả, đi thi công đường ở những nơi hiểm trở quá. Mỗi khi có việc cần, chúng em đều sang giúp các anh nấu nướng, dọn dẹp để hỗ trợ phần nào, cũng là thêm tiếng cười, nói để ở nơi xa xôi biên viễn này mọi người gắn bó với nhau hơn”. Trung úy quân nhân chuyên nghiệp Vũ Văn Tiến, vừa là lái xe vừa là “anh nuôi” của trạm kể: “Anh em chúng tôi ở đây đã vài năm cũng đã dần quen rồi. Chỉ ngại nhất là mùa đông, nhiều khi nhiệt độ xuống âm, đường xá đóng băng, đi lại khó khăn, rau xanh thì rất hiếm, thực phẩm cũng không hề rẻ khi giá cá mè là 100 nghìn đồng/kg, vịt là 130 nghìn đồng/kg, thịt lợn từ 100-120 nghìn đồng/kg… Lại thêm độ ẩm cao, quần áo đi rừng về phơi cả tuần không khô, phải đem hong trên bếp lửa cả đêm để mặc…”. Đại úy Trần Văn Khánh, trợ lý thi công của Ban QLDA 47, nói thêm: “Anh em ở trạm văn phòng còn đỡ, chứ lên tuyến thi công, nhất là tại điểm cao nhất 2.550m, quanh năm sương mù bao phủ, rét cắt da thịt, nấu cơm, đun nước cũng là cả một vấn đề. Anh em trên tuyến cao nhất là vất vả nhất”.
Hôm chia tay, chúng tôi bỗng thấy một người đàn ông trung niên từ đâu đội mưa rét, bùn đất lấm lem ào tới, cứ ôm chặt Đại tá Đồng Văn Phương như những “chiến hữu” lâu ngày gặp lại. Hỏi ra mới biết, đó là anh Lầu Bá Cổ, người dân tộc Mông, thầy giáo dạy ở Trường Tiểu học Na Ngoi 1, người đã cho Ban QLDA 47 thuê 3 gian nhà gỗ của mình để làm văn phòng. Thầy giáo Cổ nói: “Bộ đội lên làm đường, chính quyền và bà con mừng lắm chứ. Chỉ sợ bộ đội vất vả, tôi cho bộ đội thuê nhà là vừa vui, vừa yên tâm. Mong đường làm xong nhanh để nhân dân được đi lại nhưng bộ đội về thì ai cũng buồn lắm đấy”.
Chiếc xe “hai cầu” của Ban QLDA 47 lại vòng theo những cung đường uốn lượn của dãy “Phù Xai” để đưa chúng tôi trở về thành phố. Nhìn qua ô cửa kính xe thấp thoáng bóng những đồng đội ở lại đang đứng vẫy tay chào, bất chợt trong tôi lại vang lên mấy câu thơ:
“Đường tuần tiễu lúc đâm sầm xuống vực
Lại nhiều khi chọc thẳng giữa trời xanh
Khua vó ngựa vào trong tiếng ngực
Đón mùa xuân qua biên giới yên lành”.
Bài và ảnh: HOÀNG TRƯỜNG GIANG