(Tiếp theo và hết)

Cán bộ Đội sản xuất số 3 cùng người dân làm kênh mương dẫn nước từ Hải Hà về Nà Háng với quãng đường gần 6km.

Gợi chuyện gia đình riêng tư, Trung tá Đỗ Duy Ngân, Phó đội trưởng nói với tôi rằng, gần 10 năm gắn bó với lâm trường trên biên giới, xa nhà mãi dần cũng quen. Gợi chuyện gia đình riêng tư, Trung tá Đỗ Duy Ngân, Phó đội trưởng nói với tôi rằng, gần 10 năm gắn bó với lâm trường trên biên giới, xa nhà mãi dần cũng quen. Chúng tôi xác định, ngôi nhà cấp 4 này không chỉ là doanh trại của riêng mấy anh em trong Đội, mà còn là “Tổ dân phố Phật Chỉ” của đồng bào Dao nơi đây nữa. Thấy tôi ngạc nhiên, anh Ngân giải thích: Sở dĩ có tên gọi như vậy vì khi gặp việc gì khó khăn trong lao động sản xuất, bà con thường đến đây hỏi han bộ đội. Dù không phải là những chuyên gia am hiểu về trồng trọt, chăn nuôi, nhưng với khả năng của mình, anh em trong Đội luôn cố gắng hết mình để tuyên truyền, hướng dẫn bà con biết những kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho sản lượng cao hơn cách làm truyền thống trước đây. Qua mỗi lần tiếp xúc như thế, tình cảm quân dân thêm gắn bó bền chặt hơn và phương pháp dân vận của chúng tôi cũng dần dần hoàn thiện và phù hợp với thực tế. 

 Nói đến công tác dân vận ở vùng cao biên giới này, tôi lại nhớ câu chuyện Trung úy quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Tuấn Đạt, y sĩ Bệnh xá Lâm trường 155 mới kể tối hôm trước. Hồi mới lên đây công tác, anh lên bản Phai Lầu tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc Dao biết cách ăn ở hợp vệ sinh để phòng ngừa bệnh tật. Vừa bước chân vào cổng một gia đình, anh đã thấy mùi phân trâu hôi hám bốc lên nồng nặc. Vào nhà, anh vô cùng ngạc nhiên thấy một đống phân trâu khô vẫn “lừng lững” để ở góc nhà. Qua tìm hiểu anh mới biết thói quen của người Dao ở đây là quý... phân trâu khô hơn thóc. Người dân gom góp, nhặt nhạnh tất cả các bãi phân trâu rồi mang về phơi khô, sau đó đầm, giã cho nhỏ rồi hót vào trong nhà... cất giữ để phòng ngừa kẻ trộm. Trong khi đó, thóc lúa gặt xong bà con để đầy trên nương, trên bãi, ngoài đường “thoải mái, vô tư” đến khi phơi khô mới mang về nhà mà không sợ ai lấy. Vì đồng bào quan niệm rằng, có phân trâu khô thì mới có thóc lúa. Thế nên người dân nơi đây có câu khuyên bảo, nhắc nhở nhau: “Thóc để ngoài sân, phân trâu để trong nhà”. Y sĩ Đạt cho tôi biết:

- Đây là thói quen có từ lâu đời của người Dao ở bản Phai Lầu. Chúng tôi phải mất hàng tháng trời đến từng nhà kiên trì giải thích cho bà con việc làm đó là mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khỏe mọi người trong gia đình và không phù hợp với nếp sống văn minh. Dần dần bà con hiểu ra và mang phân trâu khô ra khỏi nhà, cất giữ ở chỗ khác.      

Qua Thành, tôi biết Đạt cũng là “trai phố xịn”. Gia đình, bố mẹ hiện đang ở phường Hồng Châu, TP Hưng Yên (tỉnh Hưng Yên), nhưng Đạt đã quyết định gắn bó cả đời mình với vùng biên cương Bình Liêu khi anh làm bạn đời với cô nuôi dạy trẻ dân tộc Tày Hoàng Thị Thắm ở xã Đồng Văn. Ngôi nhà cấp 4 nhỏ nhắn gần cổng lâm trường là tổ ấm của anh chị và hai con nhỏ.

Thượng tá Vũ Văn Vy, Chính trị viên Lâm trường 155 nói với tôi:

- Mười năm từ miền xuôi lên đây “lập nghiệp”, chúng tôi không chỉ vận động và giúp di dãn dân ra vành đai biên giới được 87 hộ và chuyển nơi ở của đồng bào ra khỏi địa bàn nguy hiểm, khe sâu cho 79 hộ, mà 4 gia đình quân nhân của lâm trường đã xây dựng nhà cửa và tự nguyện ở lại lâu dài trên biên cương này. Từ nơi xa xôi, hẻo lánh nhất của huyện Bình Liêu, hơi ấm của các gia đình quân và dân đang lan tỏa đã làm nên sức sống mới trên vành đai biên giới Đông Bắc.

Y tá Cao Thị Nhung, Thiếu úy  Bùi Đức Thành, Trung tá Ngô Văn Quốc, Y sĩ Nguyễn Tuấn Đạt và đội ngũ cán bộ, công nhân viên Lâm trường 155 là những người bình thường như bao người khác. Với họ, có những lúc buồn vui, có cả bao ước mơ khát vọng, có những điều mong ước bình dị và cũng có cả những giây phút mềm lòng để nghĩ đến sự tính toán thiệt hơn nào đó. Nhưng điều đáng trân trọng nhất ở họ là một tấm lòng gắn bó với đồng bào các dân tộc vùng biên suốt 10 năm qua. Nếu không có sự chung tay góp sức của các anh, sự sống trên cả một vành đai biên cương Đông Bắc vẫn “Như cánh rừng không gió, lúc nào cũng im lìm, hoang vu” như câu ví von của anh Tằng Vằn Lầu, Trưởng bản mới Phật Chỉ của xã Đồng Văn. Niềm tự hào của Trưởng bản Lầu biểu lộ rõ trong giọng nói xởi lởi:

- Trước đây, 31 hộ người Dao với 135 nhân khẩu sống ở trong các khe sâu hiểm trở, quanh năm chỉ quẩn quanh như con sóc trong rừng. Cách đây 4 năm, bộ đội Lâm trường 155 đã đưa người dân ra một địa điểm thông thoáng, gần đường, gần suối và xây dựng cho mỗi gia đình một căn nhà kiên cố tường bằng gạch, mái lợp ngói đỏ. Có nhà cửa kín tường cao mái chắc, mùa mưa bà con không sợ sấm sét, mùa lạnh không sợ gió lùa nữa. Không những làm nhà cho dân, bộ đội lâm trường còn hỗ trợ mỗi gia đình một con bò giống, trực tiếp hướng dẫn bà con cách trồng và chăm sóc cây lúa nước, cây xoài, cây hồng cho hạt mẩy, quả nhiều nữa chứ. Từ ngày có bộ đội về đây, cuộc sống của bà con dân tộc Dao đã bớt khó khăn, vất vả hơn ngày trước rồi.

Đón chúng tôi vào thăm nhà mình, vợ chồng anh Dường Kim Lìn, 27 tuổi và chị Chìu Nhì Múi, 26 tuổi luôn nói cười hồ hởi, vui vẻ. Anh Lìn kể, trước đây gia đình anh nghèo lắm. Cái nghèo mà theo anh Lìn tả “Sơ xác như cây rừng đến mùa rụng lá, buồn bã như con suối khô nước”. Năm 2005, anh chị được Lâm trường 155 xây dựng cho một ngôi nhà kiên cố 36 mét vuông và hỗ trợ cho một con bò giống trị giá 4 triệu đồng. Sau gần 5 năm được bộ đội lâm trường trực tiếp hướng dẫn cách chăn nuôi và trồng 3 “lao” lúa nước (tương đương với 9 sào Bắc bộ), cuộc sống của gia đình anh chị hiện tại tuy chưa hẳn đầy đủ mọi bề, song không còn đói ăn như trước. Chị Múi bảo: “Biết ơn cái bộ đội Lâm trường 155 nhiều lắm. Vì có sự quan tâm giúp đỡ của bộ đội mà ba đứa con của vợ chồng mình không còn nheo nhóc nữa”.

Không chỉ có bản Phật Chỉ đang bừng dậy sức sống mới, mà diện mạo cả vùng biên cương thuộc 3 xã Đồng Văn, Đồng Tâm và Tình Húc với gần 10.000 nhân khẩu ở huyện miền núi Bình Liêu cũng mỗi ngày thêm thay da đổi thịt. Nhớ lại những ngày đầu hành quân từ miền xuôi ngược ngàn lên biên giới Bình Liêu, anh Vy bộc bạch:

- Hồi ấy (tháng 4 năm 1999), khi đặt chân lên mảnh đất biên cương chỉ có núi rừng trập trùng, hoang vu, chúng tôi không khỏi băn khoăn, suy nghĩ trước một câu hỏi lớn: Cán bộ đơn vị chỉ quen cầm súng, kiến thức chuyên môn về kinh tế, khoa học kĩ thuật nông-lâm nghiệp hầu như không có, vậy làm gì và làm như thế nào để vừa ổn định tư tưởng bộ đội, củng cố tổ chức, vừa bắt tay vào công việc làm dự án kinh tế-quốc phòng có hiệu quả? Chúng tôi đã xác định: Phải vừa học, vừa làm, vừa dựa vào dân để hiểu dân và tìm cách giúp dân phù hợp.

Với nhận thức rõ ràng ngay từ đầu như vậy, đội ngũ cán bộ, nhân viên Lâm trường 155 đã kiên trì vượt khó, bền bỉ bám địa bàn, bám sát nhân dân, tích cực thực hiện song song hai nhiệm vụ là làm công tác vận động quần chúng, thực hiện các dự án kinh tế gắn với củng cố quốc phòng trên địa bàn. Sau khi tổ chức “an cư” cho dân, lâm trường đã giúp đồng bào “lạc nghiệp” bằng việc trực tiếp hỗ trợ và hướng dẫn người dân địa phương trồng mới 900 cây hồng không hạt, 4.400 cây trám ghép, 1.200 cây xoài, 5ha dong riềng và gần 23.000 khóm cỏ voi; làm mới 6km đường liên thôn bản, xây dựng một trường học, một nhà mẫu giáo, 12 bể nước sạch; giúp dân xây dựng 10 mô hình VACR mang lại hiệu quả kinh tế và xây mới 800m kênh mương cấp nước trị giá 2 tỉ đồng. Bên cạnh giúp dân xóa đói giảm nghèo, lâm trường đã tổ chức ươm 2 triệu cây giống, trồng mới gần 830ha rừng thông mã vĩ, khoanh nuôi bảo vệ 880ha rừng đầu nguồn và trồng hàng ngàn cây xanh trên đường vành đai biên giới dài 26km.

Đỉnh cao Ba Lanh một thời chiến tích hào hùng nay đã ngút ngàn một màu xanh trùng điệp. Bên dòng suối trong vắt chảy rì rào và bọt tung trắng xóa khi qua những đoạn ghềnh, là một con đường quanh co, uốn lượn đang được trải nhựa cấp phối với hai bên là những cây keo, cây sấu, cây phượng xum xuê cành lá vi vu trong tiếng gió ngàn. Những ngôi nhà ngói đỏ, tường vàng nổi bật giữa ngàn ngạt cỏ cây biêng biếc của núi rừng hùng vĩ như một “nét son” chấm phá lên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ở vùng biên. Không ồn ào, tấp nập như cuộc sống ở miền xuôi, nhưng tiếng nô đùa hồn nhiên, ngộ nghĩnh của các em nhỏ trước cổng trường Phật Chỉ, tiếng mõ trâu lốc cốc xuống núi và những chàng trai, cô gái người Dao trong bộ trang phục dân tộc rực rỡ sắc màu trên đường đi làm nương về, như làm trỗi dậy sức sống mới trên dọc vành đai biên giới Bình Liêu.

“Người dân tộc có câu: Đi đường phải nhớ người khai sơn phá thạch. Ăn gạo nương phải nhớ người làm rẫy trồng lúa. Từ ngày có Bộ đội Lâm trường 155 về đây sát cánh cùng nhân dân đẩy lùi đói nghèo lạc hậu, cuộc sống trên mảnh đất biên cương Bình Liêu đang tiến gần miền xuôi hơn. Có được niềm vui đó, đồng bào các dân tộc Dao, Sán Chỉ, Tày, Hoa... trong huyện luôn ghi nhớ tấm lòng giúp dân tận tình của Bộ đội 155”. Mang trong mình cảm giác ấm áp từ cái bắt tay thân tình của anh Lô Chắn, Phó chủ tịch UBND huyện Bình Liêu, trước khi về xuôi, tôi còn nhớ như in lời nói mộc mạc của người con dân tộc Tày giản dị ấy.

Bài và ảnh: VĂN HẢI, DUY ĐÔNG

 

Những người “bán nắng, buôn sương”