Hình như “đọc” ý nghĩ xa lơ xa lắc chẳng đâu vào đâu của tôi và thấy tâm trạng mệt mỏi, thân thể uể oải bởi suốt gần một ngày vật vã trong chiếc xe khách ọc ạch trên những con đường miền núi dốc cao đèo thẳm, người bạn ở Báo Quân khu 3 đánh thức tôi:
- Xe sắp đến Bình Liêu rồi đó!
 |
|
Trợ lý dân vận Lâm trường 155-Thiếu úy Bùi Đức Thành trò chuyện cùng thiếu nữ dân tộc Dao ở bản Cẩm Hắc (xã Đồng Văn).
|
Tôi lấy tay dụi dụi đôi mắt đang ngái ngủ, hít một hơi thở thật sâu rồi cố vươn vai, vặn vẹo hai bên sườn kêu “rắc rắc” cho tỉnh táo hẳn. Chiếc xe chạy đến chợ biên giới Đồng Văn ở xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu (Quảng Ninh) thì dừng lại. Vừa bước chân xuống xe, bất chợt tôi nghe thấy tiếng ai đó không phải ngâm nga, mà hình như là than thở: Dù ai buôn bán trăm bề/ Chớ đi Ba Chẽ, chớ về Bình Liêu. Tôi hỏi người bạn:
- Ba Chẽ, Bình Liêu có rừng thiêng, nước độc hay sao mà người ta mới khuyên nhau chớ lên mảnh đất này?
- Dân gian đã nói thì ít nhiều đều có cơ sở-Bạn tôi giải thích-Ngày xưa, mà nói đúng hơn chỉ cách đây khoảng hai chục năm thôi, đường sá lên hai huyện biên giới Ba Chẽ và Bình Liêu vô cùng gian nan, vất vả. Địa hình hiểm trở, điều kiện tự nhiên và khí hậu không thuận lợi cho việc làm ăn nên không ít người tỏ ra ngại ngùng, hơn thế là “dị ứng” mỗi khi nghĩ đến địa danh này. Nhưng khoảng chục năm trở lại đây, nhiều người đã tự nguyện “gác lại” nhịp sống rộn rã, huyên náo và cả bao điều quyến rũ ở dưới xuôi để lên vùng đất biên ải này tiếp tục công cuộc “khai sơn, phá thạch” của ông cha ta ngày trước...
Màn đêm buông xuống, vành đai biên giới xã Đồng Văn chìm trong một màu đen gần như đặc quánh. Càng về khuya, không gian càng trở nên im lìm. Tôi cố căng mắt ra cũng nhìn thấy vài ba ánh điện le lói chập chờn dưới những lớp lớp sương ngàn đang sà xuống mặt đất. Chỉ có tiếng nước suối chảy rì rào trên dòng suối nhỏ-đường ranh giới khẳng định chủ quyền giữa nước ta và nước bạn-là âm thanh duy nhất dội mồn một về bên tai tôi trong buổi tối thanh vắng. Thấy tôi đứng thơ thẩn trước hiên nhà tầng ba của sở chỉ huy Lâm trường 155, một cô gái khoảng ba mươi tuổi, dáng người thon thả, nhẹ nhàng đến gần tôi, giọng ân cần:
- Anh đi đường xa có mệt lắm không? Anh có cần dầu gió hay thuốc giảm đau đầu để em lấy cho?
- Xin lỗi, chị là ai vậy?
- Dạ, em là Cao Thị Nhung, y tá của lâm trường. Các anh chỉ huy lâm trường bảo em vào phòng khách hỏi xem các anh có cần nước nôi, thuốc thang gì không để em phục vụ!
Giọng Nhung nhỏ nhẹ, lời lẽ ý tứ, lễ phép đã tạo thiện cảm cho tôi ngay từ đầu. Qua trò chuyện, tôi mới biết Nhung là một “nữ y tá có ý chí thép” giữa miền biên ải Bình Liêu. Con gái đầu lòng mới hơn 1 tuổi, Nhung đã gửi ông bà ngoại ở phường Tiền Phong, TP Thái Bình (tỉnh Thái Bình) trông nom, nuôi dưỡng suốt gần 6 năm qua. Chồng Nhung hết công tác ở huyện Móng Cái, Tiên Yên (Quảng Ninh), nay lại chuyển về Ban tuyên huấn Bộ CHQS tỉnh Thái Bình. Vợ chồng chỉ hơn “ông Ngâu, bà Ngâu”, mỗi năm được gặp nhau dăm bảy lần là nhiều. Khoảng cách từ lâm trường đến nhà gần 600km, nếu công việc không bận rộn thì cũng phải hơn một tháng Nhung mới được đi tranh thủ về thăm chồng con một lần. Thoáng ánh nhìn xa xăm, Nhung tâm sự:
- Cá chuối đắm đuối vì con. Nhiều lúc nhớ con kinh khủng, anh ạ. Thế nên hầu như tối nào em cũng điện thoại về hỏi thăm hai bố con. Tất cả các khoản thu nhập của em được gần ba triệu, nhưng có tháng “ngốn” đến 1 triệu đồng tiền điện thoại di động. Mỗi tối được nghe tiếng con gái trong điện thoại, em mới cảm thấy mình ngủ yên tâm hơn.
Ngừng giây lát, Nhung bộc bạch:
- Dẫu sao em cũng đã có chồng con, ở cách xa nhau nhưng vẫn có chỗ để gửi gắm niềm thương nỗi nhớ. Không như em Thành, trợ lý dân vận của lâm trường, chỉ vì công tác ở đây lâu ngày, đường xa ít về mà cô người yêu đã... đi lấy chồng! Thời bình mà vẫn có những câu chuyện cứ tưởng chỉ có trong thời chiến, anh nhỉ!
Sáng hôm sau, người đưa tôi đến bản chính là Thành mà tối qua tôi đã được nghe Nhung kể. Dáng người hơi thấp nhỏ, chân tay săn chắc, nước da ngăm ngăm, khuôn mặt sàm sạm cùng với phong cách nói năng xởi lởi, điềm đạm không khác mấy một người từng trải, lúc đầu tôi cứ nghĩ Thiếu úy Bùi Đức Thành cũng phải ở độ tuổi ngót nghét 30. Nhưng thực ra Thành mới 23 tuổi. Chở tôi bằng xe máy trên đường tới bản Phật Chỉ, Thành xởi lởi:
- Trông em có vẻ già trước tuổi đúng không anh? Thì anh bảo, suốt ngày “bán nắng buôn sương” trên các nẻo đường gập ghềnh tới bản để làm công tác dân vận thế này thì làm sao trắng trẻo như thư sinh được?
Đường ngoằn nghèo, hiểm trở, chỗ thì lổn nhổn đá dăm, đoạn thì trơn trượt thuồi luội mà chiếc xe vẫn băng băng tiến về phía trước chứng tỏ những con đường miền núi “gian khổ” thế này đã rất quen thuộc với Thành. Sinh ra trong một gia đình chỉ có hai chị em, bố mẹ là công chức nhà nước ở thị trấn Núi Đối, huyện Kiến Thụy (Hải Phòng), lại có bằng kỹ sư nông nghiệp trong tay, ít người nghĩ Thành dám “bỏ lại” cuộc sống văn minh nơi phố thị để viết đơn tình nguyện lên công tác ở nơi vùng cao biên giới Bình Liêu. Thành kể:
- Hồi mới nghe tin đỗ Khoa nông nghiệp (Trường Đại học Hải Phòng), mấy đứa bạn thân bảo em “chọn nhầm nghề” rồi. Hôm chia tay lên công tác ở Lâm trường 155, có người lại nói bóng gió rằng, cái anh chàng công tử bột “trói chân gà không chặt” như em thì “trụ” được mấy ngày ở nơi biên ải đầy sương gió? Nhưng gần một năm tuổi quân của em trên này chẳng đáng là bao so với các chú, các anh đã gắn bó với vùng cao biên giới từ chục năm nay.
Tôi cắt ngang lời Thành:
- Anh hỏi thật Thành nhé! Em lên đây đơn thuần chỉ là giải quyết công ăn việc làm cho mình, hay vì lý do nào khác?
- Anh ạ, cuộc đời chẳng ai muốn gian khổ cả-Thành bày tỏ chân thành-Nhưng nếu ai cũng muốn mình có việc làm an nhàn, điều kiện sinh sống đủ đầy thì cuộc sống cũng đơn điệu quá. Tuổi trẻ, em muốn dấn thân vào những nơi gian khó, vì qua đó em vừa khẳng định được ý chí, vừa tiếp thu được nhiều điều bổ ích từ cuộc sống, lao động thực chất của những người xung quanh mình.
Lúc đưa tôi đến gặp Trung tá Ngô Văn Quốc, Đội trưởng Đội sản xuất số 3, Thành ghé tai tôi, nói nhỏ: “Anh phải tìm hiểu những người lính như chú Quốc mới thấy được những gì em nói là có cơ sở. Chú ấy gần ba chục năm quân ngũ rồi mà vẫn có lúc phải đi chăn dê, thả bò và luồn rừng, vượt suối, leo núi đi kiểm tra hàng trăm héc-ta rừng, thì đối với công việc trợ lý dân vận của em chưa thấm vào đâu cả”.
Mái tóc đã lốm đốm những sợi trắng và không được chải chuốt thường xuyên, râu ria lởm chởm những sợi cứng đờ mấy ngày rồi chưa kịp cạo sạch, mặc bộ quân phục bạc màu nắng gió, chân đi dép tổ ong màu nâu, quần xắn đến gần đầu gối, chỉ liếc mắt qua, tôi thấy anh Quốc giống lão nông tri điền hơn là một... sĩ quan quân đội. Vừa trông thấy khách đến, anh Quốc đã nhanh miệng:
- Tác phong nông dân quá, anh đừng cười tôi nhé. Lính lâm trường mà anh. Nếu không xắn quần thế này thì khó gần dân lắm!
Hóa ra anh Quốc vừa đi lội ruộng cùng với bà con dân tộc Dao ở bản Phật Chỉ về. Nhìn ngôi nhà cấp 4 các anh đang ở cheo leo bên sườn đồi mênh mông, xung quanh chỉ có núi rừng trập trùng, gió lùa tứ phía cũng đã cảm nhận được phần nào sự gian nan của những người lính “lấy dân bản làm điểm tựa, lấy rừng là chỗ nương thân”. Khi tôi hỏi về biên chế và công việc hằng ngày của Đội, anh Quốc bảo:
- Mới nghe ai cũng tưởng Đội đông quân lắm, chí ít cũng đôi ba chục người. Nhưng thực ra Đội sản xuất số 3 chỉ có vẻn vẹn 5 người, gồm hai trung tá, 1 thiếu tá và 2 đại úy. Ngoài nhiệm vụ chính là chăm sóc 250ha rừng trồng và khoanh nuôi, bảo vệ 850ha rừng đầu nguồn, chúng tôi còn chăn nuôi 25 con dê, 44 con bò và gần 100 con gà.
- Có 5 người mà chăm sóc, bảo vệ tới 1.100ha rừng, sức đâu mà các anh “kham nổi”?-Tôi ngạc nhiên.
- Sức từ lòng dân, anh ạ-anh Quốc tâm sự-Để dân không phá rừng, mà còn giúp bộ đội chăm sóc và bảo vệ rừng, chúng tôi phải đến từng nhà vận động, tuyên truyền bà con không đốt rừng làm nương rẫy, không vào rừng săn bắt thú và chặt cây rừng làm củi. Nói thì dễ thế thôi, nhưng phải chịu khó gần dân, sát dân, nói cho dân hiểu được lợi ích từ việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng và cùng chia sẻ thành quả từ rừng với dân thì bà con mới nghe, mới tin và mới hợp tác với bộ đội.
- Nghe nói có lúc anh cũng phải đi chăn dê. Xin hỏi thật anh, đeo trên vai quân hàm Trung tá rồi mà vẫn trở lại cái thời làm “mục đồng” ấy, có khi nào anh cảm thấy chạnh lòng?
Anh Quốc cười tủm để lộ ra một chiếc răng khuyết trông thật hồn nhiên:
- Các cụ bảo rồi, không xay lúa giã gạo thì phải bế em chứ. Tôi đi kiểm tra rừng, đến các bản xa nhiều lần cũng mỏi chân. Thương tôi tuổi cao, anh em trong Đội “nhường” tôi chăn dê gần doanh trại cho đỡ vất vả hơn thôi. Nói thật với bạn nhé, Đội chỉ có 5 người, hầu như quanh năm suốt tháng biền biệt xa vợ con nên thương yêu nhau như anh em ruột thịt, ai lại đi so đo cấp hàm cao thấp để suy bì, nề hà công việc nặng nhẹ, thiệt hơn.
Bài và ảnh: VĂN HẢI, DUY ĐÔNG