QĐND - Lang thang vồng hoa cánh bướm/Yêu Hồ Gươm từ thủa ấu thơ/Lớn lên/Khói lửa đô thành/Tôi mang Hồ Gươm đi kháng chiến... Đó là những vần thơ và cũng là tự sự trong tác phẩm "Ký ức Hồ Gươm" mà ông Trần Hồng Tiến, trú tại số 388, Quang Trung (quận Hà Đông, Hà Nội) kể cho chúng tôi nghe. Ông đã tham gia cách mạng từ rất sớm và thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, góp phần giải phóng Hà Đông, tạo điều kiện để các cánh quân tiến vào cửa ô an toàn… Những kỷ niệm ấy như tiếp thêm niềm tin, động lực để thế hệ trẻ hôm nay vững vàng tiếp bước cha anh.
Trở thành Bộ đội Cụ Hồ
Bên tách trà đượm hương hoa nhài, tạm khép lại những vần thơ, ông Tiến chậm rãi kể cho chúng tôi nghe: "Tôi sinh năm 1931, tại xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội, nhưng gia đình sống ở ngõ Quang Trung, phố Bạch Mai, Hà Nội. Thời điểm năm 1945-1946, có rất nhiều người đi bộ đội. 15 tuổi, một đồng chí là chính trị viên đại đội, người cùng phố hỏi tôi: "Em có đi bộ đội không?". Khi ấy tôi rất thích đi nhưng sợ gia đình không đồng ý. Sau này tản cư về làng, tôi gặp lại đồng chí, hẹn anh cứ đi trước, tôi sẽ đi sau và sau đó đã trốn nhà vào bộ đội, làm liên lạc của Đại đội 28, Vệ quốc đoàn, tại Thường Tín… Thời gian làm việc ở đây, thấy tôi nhanh nhẹn, cấp trên đưa tôi về làm Thiếu sinh quân Trung đoàn 48 (Thăng Long). Đến năm 1949, tôi chuyển sang làm Thiếu sinh quân Quân khu 3. Năm 1950, tôi gặp đồng chí Binh Đăng, Chính trị viên Tỉnh đội Hà Đông và được anh xin về công tác tại Văn phòng Tỉnh đội. Khi Đại đội Nguyễn Trãi ra đời, tôi chuyển sang với cương vị chính trị viên. Công việc lúc này của đơn vị chủ yếu là duy trì luyện tập chiến đấu, đánh địch ở Thường Tín, Chương Mỹ, Thanh Oai… Ở đó một thời gian, tôi tiếp tục về công tác tại Đại đội 29, ở Chương Mỹ, hằng ngày làm quân báo. Nhiệm vụ của tổ chúng tôi là vờ làm phu dọn dẹp, làm cỏ, xây dựng trong các bốt địch nhằm nắm tình hình, đường đi, nước bước của địch để ta có phương án đối phó kịp thời".
 |
Ông Trần Hồng Tiến (người ngồi giữa) nhớ lại kỷ niệm về những ngày chuẩn bị giải phóng Thủ đô. Ảnh: Trần Ngoan
|
Theo lời kể của ông Tiến, những thông tin mà tổ của ông nắm bắt được đã giúp đơn vị có nhiều trận phục kích thành công. Tiêu biểu là trận đánh ở bốt Đại Ơn, Chương Mỹ, từ nguồn tin mà ông Tiến và các đồng đội nắm được, Đại đội 29 đã tổ chức phục kích, tiêu diệt 1 tiểu đội, bắt sống 11 tên địch, thu 1 khẩu súng trung liên, 6 khẩu súng tiểu liên và 10 khẩu súng trường.
Ký ức những ngày tháng Mười
Theo ông Trần Hồng Tiến, giải phóng Hà Đông là tiền đề rất quan trọng, tạo địa bàn an toàn để các cánh quân tiến vào tiếp quản Thủ đô. Bởi vì, đặc thù của Hà Đông xưa liền kề với Hà Nội. Hà Đông là đường vòng cung bảo vệ Hà Nội nên cùng chung nền văn hiến với Thủ đô, giao thông liền mạch. Về truyền thống, quân sự, Hà Đông cũng chung số phận với đất nước và Thủ đô. Địch muốn đánh Hà Nội, trước tiên phải bình định được Hà Đông, chính vì vậy mà Hà Đông xưa được mệnh danh là áo giáp, cửa ngõ Thủ đô. Điển hình như trong 60 ngày đêm kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Hà Đông đã tiếp sức trong đánh, ngoài vây, góp phần để quân và dân Hà Nội đánh kìm chân quân địch. Đặc biệt, khi bộ đội về tiếp quản Hà Nội thì các con đường của Hà Đông (gồm có 3/5 đường) cũng chính là huyết mạch để các cánh quân tiến vào. Ngoài ra, nhân dân còn chịu trách nhiệm tiếp tế lương thực, thực phẩm và các yếu tố khác phục vụ bộ đội trở về…
Kể về những ngày tháng Mười năm ấy, ông Tiến chia sẻ: "Tôi không tham gia tiếp quản Hà Nội nhưng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ trong tiếp quản Hà Đông ngày 6-10-1954. Tháng 10-1954, tôi ở Ban Chính trị Tỉnh đội Hà Đông. Chúng tôi có nhiệm vụ hiệp đồng, giữ vững liên lạc, chuẩn bị chu đáo tình hình để Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 và Tiểu đoàn 79 của Tỉnh đội vào tiếp quản thị xã Hà Đông. Đồng thời, liên hệ với Ủy ban Quân chính động viên nhân dân yên tâm, phấn khởi, làm cổng chào, chuẩn bị cờ, hoa đón bộ đội… Nói là ngày 6-10 tiếp quản, nhưng thực chất từ mấy ngày trước, quân ta đã đóng hết ở các khu vực ngoại thị, từ Thạch Bích, La Khê, làng Mọc xuống đến Phùng Khoang…".
Ngừng một lát, ông Tiến kể tiếp: "Đúng ngày 6-10, từ rất sớm, tôi cùng đồng chí Chu Đỗ, Bí thư Tỉnh ủy và Tỉnh đội trưởng, Chính trị viên Tỉnh đội, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9 vào thị xã gặp đại biểu của Ba Lan, Ấn Độ, tức Ủy ban Quốc tế thống nhất việc di dời phương tiện, lực lượng của địch khỏi thị xã. Khoảng 8 giờ 30 phút, cờ của ta kéo lên tại các trụ sở mới tiếp quản, chuông chùa, nhà thờ vang lên. Nhân dân nô nức hoan hô, vẫy cờ, hoa khi bộ đội tiến vào. Có thể nói Hà Đông lúc bấy giờ rực rỡ cờ đỏ, sao vàng. 9 giờ, ta mít tinh tại vườn hoa, dưới sự chủ trì của Tỉnh ủy Hà Đông; đồng thời tuyên bố sau 9 năm trường kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, sự đoàn kết chiến đấu của quân và dân, ta đã giải phóng được miền Bắc, rồi chốt nào trở về chốt đó.
Sau ngày tiếp quản thị xã, để bộ đội về tiếp quản Thủ đô được an toàn tuyệt đối, tất nhiên từ trước đó một thời gian dài, lực lượng của ta đã phải học kỹ điều Bác Hồ căn dặn như: 12 điều kỷ luật của quân đội, 8 chính sách vùng giải phóng, kỷ luật tiếp quản vùng giải phóng; phố biến tuyên truyền cho nhân dân thấy rõ ý nghĩa của việc tiếp quản (vì lúc ấy địch có âm mưu dụ dỗ đồng bào di cư với mục đích lấy số phiếu bầu cử 2 năm) và bộ đội vào giải phóng chứ không lấy bất kỳ cái kim, sợi chỉ của nhân dân… Còn trong thời gian bộ đội tiếp quản Thủ đô, chúng tôi chủ yếu làm công tác nắm tình hình nội bộ nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự để chủ động trước mọi tình huống. Đồng thời, chuẩn bị cờ, hoa, lương thực để đón bộ đội. Thực chất bộ đội đã ém quân ở các điểm khác, chứ đúng ngày 10-10 thì chỉ có mấy đoàn xe đi qua Hà Đông, tiến vào Hà Nội…".
Trò chuyện với chúng tôi, ông Tiến rất tâm huyết khi nói về tình hình đất nước và thế giới hiện nay. Ông bảo muốn đất nước luôn phát triển và trường tồn, thế hệ trẻ phải không ngừng học tập, nâng cao kiến thức, tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng đất nước. Đặc biệt, phải luôn luôn nhớ lời Bác Hồ dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Trước lúc chia tay, ông Tiến giọng đầy tâm huyết: "Nước Việt Nam của người Việt Nam, Tổ quốc là thiêng liêng, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các thế hệ đi trước đã đổ máu xương, vượt qua khó khăn, giành thắng lợi. Vì vậy không có lý do gì để thế hệ trẻ chùn bước. Chỉ khi đất nước mạnh thì kẻ thù mới sợ và dù quân thù có âm mưu nham hiểm thế nào thì chúng ta vẫn có cách để đối phó, chiến thắng vì chúng ta là chính nghĩa".
Ghi chép của TRẦN HIỀN