QĐND Online - Tôi được gặp đồng chí Đoàn Khuê lần đầu tiên vào năm 1958 khi Lữ đoàn 270 làm nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến Vĩnh Linh (Quảng Trị). Lúc đó Chính ủy Lữ đoàn Đoàn Khuê nói chuyện về tình hình An-giê-ri với cán bộ trung đội trưởng trở lên. Cả hội trường lặng nghe. Ra về, ai cũng bàn tán: “Đại tá 36 tuổi trẻ quá”, “Chưa nghe chính ủy nào nói chuyện hay như vậy”… Sau này càng có dịp tiếp xúc, làm việc, tôi càng ấn tượng về những lời căn dặn của đồng chí.

“Chỉ có con đường của Đảng vạch ra mới là duy nhất đúng”

Lữ đoàn tiến hành chỉnh huấn chính trị về “quá  độ lên CNXH” cho cán bộ từ đại đội trở lên, Chính ủy Đoàn Khuê chủ trì. Có hai luồng ý kiến đang tranh luận sôi nổi: Ta đi lên theo con đường tắt hay theo con đường lớn. Tôi vừa đưa tay vừa đứng dậy nói to: “Tôi không đi con đường tắt, cũng không đi con đường lớn. Tôi có con đường khác”. Chính ủy chỉ định tôi phát biểu ngay. Tôi lập luận: “Ta đàng hoàng tại sao đi đường tắt? Ta sáng suốt dại gì đi đường lớn cho xa! Vậy đi đường nào? Tôi đi theo “con đường của Đảng vạch ra”. Lập tức Chính ủy Đoàn Khuê vỗ tay, cả hội trường vỗ theo. Giờ giải lao, Chính ủy vỗ vai tôi: “Cậu phát biểu hay lắm, chỉ có con đường của Đảng vạch ra mới là duy nhất đúng”.

Đại tướng Đoàn Khuê (phải) và Đại tá Nguyễn Đình Ngật tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu 5 lần thứ IV (năm 1991).

Mấy tháng sau, Chính ủy gọi lên, đưa cho tôi một tờ quyết định về nhận công tác ở một đơn vị làm kinh tế. Đồng chí nắm tay tôi dặn dò: “Nhiệm vụ này vất vả đó, vất vả không phải lao động mệt nhọc, mà ở chỗ làm sao cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị xác định được đi nông trường là đi theo con đường của Đảng vạch ra”. Về nông trường, phần lớn anh em quê ở Trị Thiên bên kia cầu Hiền Lương, đang tâm tư gia đình nằm trong vùng địch kiểm soát, nay lại đi nông trường trồng cao su ở vùng rừng núi. Theo ý kiến chỉ đạo của Chính ủy Đoàn Khuê, tôi cùng tập thể cấp ủy, chỉ huy đơn vị tập trung giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Hơn 6 tháng sau, tình hình tư tưởng trong đơn vị dần được ổn định. Từ đó, tôi càng tâm đắc việc tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị phải phải nắm lấy khâu theo chốt “giáo dục quán triệt nhiệm vụ” như lời Chính ủy dặn dò mới giải quyết được cốt lõi của vấn đề.

“Hoạt động của thanh niên phải coi trọng cả hai mặt giáo dục và xung kích”

Về nông trường được một thời gian ngắn, tôi lại có quyết định về Ban Tổ chức Lữ đoàn. Cầm quyết định, tôi lên gặp Chính ủy, trình bày: “Báo cáo đồng chí, lâu nay tôi ở đơn vị, chưa hề công tác ở cơ quan”. Chính ủy nói ngay: “À thế thì về đơn vị”. Ngay sau đó, đồng chí gọi tôi lên giao quyết định mới: “Lữ đoàn đã tính toán, cậu về Ban Tổ chức cũng tốt, nhưng về Tiểu đoàn 1 thì tốt hơn. Cậu về Tiểu đoàn lúc này phải làm tốt hai việc: Giáo dục phát huy truyền thống và đẩy mạnh phong trào Đoàn Thanh niên, mà hoạt động của thanh niên phải coi trọng cả hai mặt giáo dục và xung kích, chú trọng chiều sâu đừng chạy theo hình thức, phô trương”.

Tiểu đoàn 1 vốn là Tiểu đoàn 310 của Trung đoàn 95 trong kháng chiến chống Pháp. Với cương vị Chính trị viên phó, tôi đề xuất với Đảng ủy Tiểu đoàn để mỗi chi đoàn tự nghiên cứu và lấy tên cho mình, như: Chi đoàn Lê Hồng Phong (Đại đội 1), Chi đoàn Tô Vĩnh Diện (Đại đội cối 82), Chi đoàn Cù Chính Lan (Đại đội ĐKZ chống tăng), Chi đoàn Trần Phú, Chi đoàn Lý Tự Trọng… Chi đoàn nào cũng tổ chức học tập thân thế sự nghiệp, cuộc đời hoạt động, gương chiến đấu của các đảng viên tiền bối, các anh hùng; kết hợp quá trình học tập với phát động thi đua xung kích vào nhiệm vụ trọng tâm. Ngoài ra, đơn vị còn huy động những anh em biết vẽ sáng tác những bức tranh mô tả lại các trận chiến đấu của Tiểu đoàn: Hạ Cờ, đường 74, cầu Lèo Heo… ; xây dựng phòng truyền thống. Phong trào thanh niên của Tiểu đoàn hoạt động rất sôi nổi. Quân khu và toàn quân tổ chức các đoàn đến tham quan.

“Giáo dục truyền thống phải thấm đến người chiến sĩ”

Đầu tháng 9-1959, Phòng Chính trị Lữ đoàn triệu tập tôi đi dự Hội nghị Tổ chức toàn quân lần thứ ba. Trên đường về, Chính ủy Đoàn Khuê tâm tình: “Hội nghị có nhiều vấn đề, riêng việc giữ nghiêm kỷ luật Đảng có nói phải làm cho người đã tích cực thì tích cực hơn nữa, người tương đối tích cực thì trở thành người tích cực, người lạc hậu thì trở nên tiến bộ. Vậy Tiểu đoàn 1 có mấy anh em chậm tiến?”. Sau khi nghe tôi báo cáo, đồng chí dặn: “Cậu phải nắm vững ba vấn đề: Một là bản thân mình có tin chuyển hoá anh em đó được không? Có lòng thương yêu anh em đó không? Hai là phải tìm cho được nguyên nhân chủ yếu gây nên chậm tiến của từng người; Ba là phải kiên trì, không nóng vội được, cứ xuôi tay thả lỏng là tiêu cực, nhưng nóng vội cũng chẳng thành công”.

Khoảng đầu năm 1960, đã 4 giờ chiều, bỗng thấy xe Chính ủy Đoàn Khuê đến trước sân. Đồng chí chỉ vào hai cây hoa ban và nói rằng: “Hai cây này ở Điện Biên Phủ tặng cho Lữ đoàn bảo vệ giới tuyến, tôi chở máy bay về Hà Nội, rồi từ Hà Nội đi xe ô tô xuống thẳng đây. Lữ đoàn giao cho Tiểu đoàn 1 trồng. Các đồng chí biết trồng hai cây này để làm gì không?”. Tôi nhanh nhẹn báo cáo: “Để giáo dục truyền thống cho đơn vị”, rồi tiếp luôn: “Đề nghị cho Tiểu đoàn đặt tên hai cây hoa ban này là “Hoa Chính ủy”. Chính ủy Đoàn Khuê khoát tay: “Đừng bày vẽ, cứ gọi là hoa ban Điện Biên Phủ”.

Ba tháng sau, xuống dự họp Đảng ủy Tiểu đoàn, Chính ủy hỏi một binh nhất ở tiểu đội tiếp đạn:

- Đồng chí có biết cây này là cây gì không?

- Báo cáo Chính ủy, cây hoa ban Điện Biên Phủ.

- Đúng rồi, Điện Biên Phủ có anh hùng La Văn Cầu chặt cánh tay bị thương để lao lên diệt địch phải không?

- Báo cáo không. La Văn Cầu là chiến dịch Biên giới. Ở Điện Biên Phủ là anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai ạ.

Khi ra về, Chính ủy nói với chúng tôi: “Mình rất khoái ý kiến của đồng chí binh nhất. Giáo dục truyền thống là giáo dục thấm đến người chiến sĩ”.

… Những năm tháng được gần gũi, tiếp xúc và công tác cùng đồng chí Đoàn Khuê, tác phong, những lời dặn của đồng chí đã in đậm trong tôi thành những ấn tượng sâu sắc không thể nào quên. Lần cuối cùng, vào tháng 10-1998, tôi đến A11 - Quân y Viện 108 thăm đồng chí. Tuy người mệt nhưng đồng chí vẫn ngồi dậy hỏi thăm tôi và tình hình gia đình. Thấy người đồng chí yếu đi, giọng nói khàn khàn, tôi lo lắm song vẫn tin tưởng được sự chăm sóc tận tình của các thầy thuốc và người thân, đồng chí sẽ vượt qua cơn bạo bệnh. Ngờ đâu tháng 1-1999, Đại tướng Đoàn Khuê đã ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn trong trái tim đồng bào, đồng chí, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.

Đỗ Thị Ngọc Diệp (Ghi theo lời kể của Đại tá Nguyễn Đình Ngật, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 5)