QĐND - Trước khi vào thị trấn Khe Sanh, chúng tôi rẽ vào thăm làng Vây và Tượng đài xe tăng. Bệ tượng đài được xây dựng kiên cố trên đồi cao, bên trên là biểu tượng chiếc xe tăng đầu tiên của quân đội ta đã vượt sông Bến Hải, vượt “hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra” vào chiến trường miền Nam, lập nên chiến công hiển hách, trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào.
Đêm đầu hè, thị trấn Khe Sanh mát mẻ, ánh điện tỏa sáng một vùng rừng núi trên cao. Đứng trên ban công tầng 2 khách sạn, chúng tôi nhìn về phía tây nam, dưới ánh trăng trung tuần hiện ra thung lũng Khe Sanh. Nhìn ra xa, hướng lên phía đỉnh Trường Sơn, theo tay anh Lê Tiến Thoại chỉ, là từng dãy núi nhấp nhô lượn sóng dọc theo đường Trường Sơn huyền thoại. Trong đó nhô lên một ngọn cao nhất, ngọn một ngàn (1000m). Anh Thoại nói: Theo trinh sát đo đạc, đúng ra là một ngàn lẻ bảy (1007m).
 |
|
Tượng đài xe tăng Làng Vây. Ảnh: Internet
|
- Ngày ấy Trung đoàn 45, lần đầu tiên vào Nam chiến đấu đánh Mỹ, tham gia chiến dịch Hè - Thu 1967 và Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968. Đơn vị tạm “cất” pháo xe kéo, dùng pháo hỏa tiễn DKB mang vác vào chiến trường “luồn sâu đánh hiểm”, “bám thắt lưng địch” mà đánh - Anh Thoại kể - Vì vậy, ngoài trang bị đi chiến trường như lính bộ binh, người lính pháo binh còn phải khiêng pháo, vác đạn, khí tài chuyên dụng, hành quân đường dài trên đường mòn Trường Sơn, vô cùng gian lao, muôn vàn khó khăn vất vả. Hôm ấy hành quân cuối ngày đã thấm mệt, lại phải vượt qua đỉnh một ngàn, nhưng mọi người đều quyết tâm, động viên, giúp dìu nhau vượt qua đèo, tôi xúc động, “tức cảnh” mấy câu thơ:
Vác pháo băng qua đỉnh một ngàn
Quân đi dậy đất tiếng cười vang
Vén mây lau vạt mồ hôi trán
Đo thử mặt trời cách mấy gang.
Lê Tiến Thoại, cán bộ chính sách của Trung đoàn, có mặt trong đoàn quân hành ngày ấy. Bốn câu thơ vang tiếng một thời của anh đã được đăng tải trên một số báo và đã thành câu ca đến nay không ít chiến sĩ pháo binh đều thuộc. Bốn câu thơ rung cảm lòng người, tràn đầy ý chí quyết chiến quyết thắng, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ - Bộ đội Cụ Hồ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Ngày thứ ba
Ngày về, chúng tôi không hoàn toàn đi trở lại theo đường vào, Quốc lộ 1A. Từ thị trấn Khe Sanh xuôi Đường 9 xuống ngã 3 Đường 15 (Đường Hồ Chí Minh), rẽ ngược ra Bắc, về tham quan động Phong Nha - Kẻ Bàng, thăm lại bến phà Xuân Sơn trên sông Gianh (Quảng Bình). Thực ra, ngày chiến tranh ở phía tây Quảng Bình, bộ đội Trường Sơn 559 đã mở nhiều con đường huyết mạch từ Bắc vào để bảo đảm vận tải thông suốt cho chiến trường: Đường 15 qua Thạch Bàn vào làng Ho rồi đi tiếp; Đường 10 qua phía đập Cẩm Ly, leo lên đỉnh cao xanh của Trường Sơn, đông nắng tây mưa; và Đường 20 - đường Quyết Thắng, con đường mà TNXP có nhiệm vụ bảo đảm thông suốt, an toàn, hằng năm, ước tính mỗi người phải hứng chịu hàng trăm quả bom, nhưng họ vẫn kiên cường bám trụ. Con đường huyền thoại ấy bắt nguồn từ phía phà Xuân Sơn.
Đường 15, Đường mòn Hồ Chí Minh ngày xưa nay là Đường Hồ Chí Minh trải nhựa phẳng lỳ, chỉ hơn 3 tiếng đồng hồ, đi từ ngã 3 Đường 9 chúng tôi đã có mặt tại bờ nam bên phà Xuân Sơn. Ai nấy không khỏi ngỡ ngàng khi xe dừng lại trước một thị trấn có không ít khách sạn, nhà hàng đang đua nhau niềm nở chào mời du khách; khu phố chợ trên sông cũng đầy đủ các chủng loại hàng hóa. Đặc biệt, nơi đây có vị trí đắc địa “trên bến dưới thuyền”, hằng ngày liên tục có các đoàn khách tham quan, du lịch từ thập phương, và rất nhiều khách quốc tế đổ về. Dưới bến sông, từng kíp ca nô có biển số hiệu riêng, cắm cờ đỏ sao vàng, tấp nập rẽ sóng ra vào bến đưa, đón du khách từng đợt, từng đợt ngược dòng sông Son lên thăm động Phong Nha Kẻ Bàng.
Tận dụng ít phút nghỉ trưa, tôi và Nguyễn Hữu Học xuống bến phà chụp ảnh kỷ niệm và để được ngắm, nhớ lại những ngày đưa xe pháo vượt phà Xuân Sơn - một trong những bến phà trọng điểm, địch đánh phá ác liệt nhất trong chiến tranh. Cách mép nước bờ nam chừng 50m, một bia tưởng niệm dựng sát đường lên xuống bến phà. Bia đá lớn khắc chữ: “Di tích lịch sử - Bến phà bị đánh phá ác liệt nhất từ năm 1965-1975 - xã Sơn Trạch”. Nhân dân và du khách qua lại thắp hương và dựng những bó hoa dưới chân bia để tưởng nhớ những chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong, những người đã anh dũng hy sinh, bảo đảm cho bến phà không bao giờ “chết” trước sức mạnh bom đạn tàn bạo của kẻ thù.
Đứng ở bia tưởng niệm “Di tích lịch sử Bến phà” nhìn sang bờ Bắc rất gần bởi dòng sông hẹp. Thời gian đã xóa đi dấu vết tàn phá của chiến tranh, không còn cảnh hố bom chồng chất hố bom, bến phà biến dạng, núi đá cao bị bạt thấp, đất đá, cây cối đổ xuống đường chặn lấp bến phà. Thay vào đó, quy luật tự nhiên của tạo hóa đã trả lại cho bến phà Xuân Sơn một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, bức tranh Sơn - Thủy độc đáo riêng biệt: Trên dòng sông Son xanh biếc, êm đềm phẳng lặng, soi bóng lung linh ngọn núi đá phủ cây xanh, con đường đất đỏ và những ngôi nhà mới thấp thoáng trên bờ. Dưới chân rặng núi xanh non (Xuân Sơn) trùng điệp, những áng mây trắng bồng bềnh trên nền trời trong xanh, tạo nên bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, khó có họa sĩ thiên tài nào sáng tạo hơn.
Có lẽ vì Đường Hồ Chí Minh hôm nay đi rẽ theo nhánh khác, hoặc vì để bảo tồn, giữ nguyên di tích lịch sử bến phà Xuân Sơn nên đến nay bến phà này vẫn chưa có cầu như cầu Sông Gianh dưới Quốc lộ 1, và cũng chẳng thấy có phà. Nói đến cung đường ác liệt từ bờ Bắc ra Choóc, ra đèo Đá Đẽo, ra khe Tang, khe Dinh…, người lính pháo binh chúng tôi không bao giờ quên. Ngày chiến tranh, từ Bắc, hành quân vào chiến trường theo Đường 15 đến Can Lộc - Hà Tĩnh, vượt qua ngã 3 Đồng Lộc, cánh lính vận tải bằng xe cơ giới, nhất là xe có “đuôi”: Xe rơ-moóc, xe kéo tên lửa, xe kéo pháo… đều phải dừng lại, chuẩn bị, kiểm tra thật kỹ lưỡng, chắc chắn từng con ốc, móc kéo pháo, động cơ máy nổ, lượng xăng dầu, trước khi vượt khe Dinh, khe Tang, vượt trọng điểm hơn 10 cây số trên đèo Đá Đẽo xuống phà Xuân Sơn. Nếu không, chỉ cần xe bỏ máy, bò chậm hoặc hỏng hóc dừng lại giữa đèo là lập tức “dính” đạn bom bốc cháy! Cung đường này địch đánh phá ác liệt đến mức mỗi lần đi qua, người lính pháo đều cảm nhận sâu sắc câu thơ ghi trong nhật ký của một chiến sĩ pháo binh:
Đây khe Dinh những dốc cùng đèo
Những “Cua”, cua gấp dốc cheo leo
Gian lao chi bằng người lính pháo
Suốt đêm thức trắng mắt trong veo
……
Khe Tang mỗi mét một hố bom
Cỏ cây hoa lá tưởng chẳng còn
Ngờ đâu trên đường gian khổ ấy
Pháo xe ra trận ngày đông hơn...
Đặc biệt, chặng đường đèo Đá Đẽo dài hơn 10km và bến phà Xuân Sơn, không quân địch thay nhau đánh phá ngăn chặn liên tục ngày đêm 24/24 giờ (đèo Đá Đẽo còn được ví như đèo Lũng Lô của Điện Biên Phủ). Khác với kháng chiến chống Pháp “địch đánh ta dừng, địch ngừng ta đi”, trong kháng chiến chống Mỹ, địch ỷ thế giàu mạnh về không quân và bom đạn, chúng đánh phá liên tục không ngừng suốt ngày đêm, nhất là những nơi chúng xác định là trọng điểm hủy diệt. Vì vậy, để chiến thắng thù chúng ta chỉ có thể “địch đánh cứ đánh, ta đi cứ đi”, kết hợp với lực lượng cao xạ, phòng không đánh trả và sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ những công việc cụ thể, mưu trí sáng tạo để vượt qua trọng điểm, đem lại xác suất an toàn ngày càng cao với tỷ lệ 80 - 90% đã là thắng lợi lớn...
Ngày thứ tư
Chúng tôi quyết định lên Ngã ba Đồng Lộc thắp hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong trước khi về Hà Nội. Cùng với Nhà bảo tàng, Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc, các công trình tượng đài, tưởng niệm được xây dựng độc đáo, uy nghiêm là chứng tích lịch sử vĩnh hằng để lại cho hậu thế mãi mãi không bao giờ quên sự hy sinh lớn lao của lớp lớp tiền bối, cái giá phải trả cho độc lập tự do, cho cuộc sống hạnh phúc, sự phát triển và trường tồn của dân tộc, của đất nước.
Dòng người đông đúc từ các ngả đổ về Ngã ba Đồng Lộc, đông nhất có lẽ là các em học sinh, các đoàn thể, phụ nữ. Trầm hương ngào ngạt, lan tỏa khắp nơi, ta linh cảm như đang đi vào khu vực đền phủ, chùa chiền, nơi vong của các liệt nữ thanh niên xung phong yên nghỉ - siêu thoát.
Dùng dằng, lưu luyến mãi nhưng rồi cũng phải ra về, hơn 12 giờ chúng tôi mới tới thành phố Vinh ăn cơm và 8 giờ tối, chúng tôi mới về đúng vị trí xuất phát: Cổng Bộ tư lệnh Pháo binh, an toàn, phấn khởi.
*
* *
Bốn ngày “thăm lại chiến trường xưa” cho dù kế hoạch dự tính khá chặt chẽ, tận dụng thời gian linh hoạt hết mức, cuộc hành trình Bắc - Nam, Đông - Tây, lên rừng xuống biển… tính ra cũng gần bằng chiều dài đất nước, thế nhưng cũng không thể đến hết được các địa điểm, địa danh như mong muốn. Tuy nhiên, hành trình tham quan, thăm lại chiến trường xưa của chúng tôi gặp nhiều thuận lợi, kết quả vượt yêu cầu so với kế hoạch dự định.
Thăm lại chiến trường xưa, hồi nhớ những tháng ngày khốc liệt cũng là tri ân sự hy sinh của biết bao đồng đội, đồng bào. Sự hy sinh cao cả hôm qua đã góp phần cho hoa thơm trái ngọt hôm nay.
Hoàng Hải (Tiếp theo và hết)
Nhật ký Nguyễn Văn Hợi: Từ Khe Sanh đến Thành cổ Quảng Trị