Bà Nguyễn Thị Ngô (bên trái) cùng người con gái đầu Lê Thị Tuyết Nhung bên căn nhà của bà.

Chuyện kể trong rừng Khe Sanh

Bẩy và Hoan cùng quê (Đặng Xá-Gia Lâm-Hà Nội), nối khố mò cua bắt ốc, cùng theo học trường làng, trường huyện. Năm 1967, họ tốt nghiệp cấp 3, Bẩy đi bộ đội vào chiến trường B, Hoan học trường sư phạm rồi cũng nhập ngũ đầu năm 1970, chiến đấu ở khu vực Tà Cơn, Lao Bảo (Quảng Trị). Một ngày tháng 6 năm 1973, trên đường công tác qua rừng Khe Sanh, Hoan gặp Bẩy cùng với đồng chí Chính trị viên Đại đội đi dự Đại hội Đảng bộ Trung đoàn… Mừng mừng, tủi tủi, Bẩy cho bạn biết mình vừa về phép cưới vợ xong. Đám cưới của Bẩy đã kết thúc một câu chuyện mà Bẩy với Hoan gọi là: "Tai nạn nhỏ trong chiến tranh".

… Mùa mưa năm 1971, sau những năm tháng gian khổ, ác liệt ở chiến trường, Bẩy bị chứng sốt rét ác tính làm cho xanh xao, rụng hết tóc, đầu trọc lốc. Anh được đưa ra chữa bệnh tại cơ sở quân y nằm gần một trạm thu dung ở Quảng Bình. Một hôm, trên chiếc xe chở thương binh ra Bắc chạy qua đó, có tiếng gọi to: “Có chiến hữu nào là người Hà Nội không?”. Bẩy sướng quá hô lớn: “Có! Có Đặng Xá-Gia Lâm đây!”, rồi bám vào thành xe nói gấp gáp: "Nhờ các đồng đội báo với gia đình Bẩy là Bẩy vẫn còn sống nhé…".

Ai ngờ sự ngẫu nhiên tai ác: “Đầu trọc-B quay” liền tạo thành tiếng đồn: Bẩy đào ngũ, đang bị giữ ở Quảng Bình(!) Chuyện lan nhanh như gió bão. Chẳng mấy chốc, tin xấu ấy cũng đến tai Bẩy. Anh không hề giận dữ, chỉ khổ tâm khi nghĩ về gia đình mình. Thay cho lời thanh minh, anh càng nỗ lực công tác, dũng cảm chiến đấu. Năm 1972, tại chiến trường, anh được kết nạp Đảng. Ở quê, ngoài bố mẹ Bẩy, ông Lê Đĩnh (anh ruột Bẩy, lúc đó là trưởng công an xã) có lẽ là người đau khổ nhất! Khi Bẩy về nghỉ phép cưới vợ, vừa đặt chân vào nhà, ông Đĩnh đã bắt Bẩy “xuất trình giấy tờ”. Giấy ghi rõ: Lê Văn Bẩy, Trung sĩ, Tiểu đội trưởng, thuộc Tiểu đoàn 10, Trung đoàn 218, Đoàn 559, về phép cưới vợ... Ông Đĩnh lại hỏi: “Có là đảng viên không?”, Bẩy đáp: “Có chứ ạ! Em được kết nạp tại chiến trường!”...

Mấy ngày đầu ở quê, mọi người rất ít qua lại nhà Bẩy. Họ cách ly “B quay”. Ông Đĩnh và gia quyến cố gắng giải thích chuyện nhầm lẫn thì bà con họ mạc cũng nghe ra, nhưng đa số người dân còn bán tín, bán nghi. Riêng cô gái làng Nguyễn Thị Ngô, kém Bẩy hai tuổi thì rất vững tin. Bằng sự nhạy cảm của con tim, cô tin người chồng sắp cưới của mình – người chiến sĩ giải phóng quân với lời thề sắt son lúc anh tạm biệt cô, lên đường đi chiến đấu!... Cho đến ngày 12 tháng 4 năm 1973 (âm lịch) lễ thành hôn của hai người tổ chức, đồng chí Vũ Đức Nghi, trợ lý Chính trị Trung đoàn 218 (cùng nghỉ phép với Bẩy) đã xúc động phát biểu trước hai họ: “Thay mặt các đồng đội, tôi chúc mừng hạnh phúc đồng chí Tiểu đội trưởng Lê Văn Bẩy". Anh nói vui: “Lẽ ra đồng chí Bẩy cưới vợ cách đây 2 năm, nhưng lúc ấy vi trùng sốt rét làm đồng chí Bẩy rụng hết tóc, nên không dám nghĩ đến chuyện đón dâu, sợ người yêu chê!...”. Ông Đĩnh như trút được gánh nặng. Ông nói oang oang tiếp lời đồng chí trợ lý chính trị: “Các chú đừng xem thường gái Đặng Xá nhé. Các chú đi đánh giặc, cứu nước, nếu không may bị thương tật, nặng nhẹ thế nào cũng cứ về đây, có gái Đặng Xá chăm sóc”. Dân làng vui vẻ mừng lứa đôi “Trai sẵn sàng, gái đảm đang”, “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Cưới vợ được 5 ngày Bẩy tiếp tục về đơn vị…

Ngôi nhà với những kỷ niệm

Đất nước thống nhất, Bẩy ra quân về xây dựng quê hương, làm Bí thư chi bộ đảng ở địa phương. Ngày 20-2-1979, anh xung phong tái ngũ, vào Tiểu đoàn Phù Đổng (Bộ đội Hà Nội) đi bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Trong một trận quyết chiến với quân giặc, anh đã ngã xuống, mãi mãi thơm danh một người con hai lần ra chiến trường cứu nước.

Lê Văn Bẩy hy sinh khi vừa mới vào tuổi “Tam thập nhi lập”, để lại cô con gái đầu lòng Lê Thị Tuyết Nhung vừa tròn 24 tháng tuổi, đứa con thứ hai mới hình thành trong bụng mẹ được 8 tuần lễ. Niềm mơ ước được anh nói thành lời trong lúc hai vợ chồng nhào đất đóng gạch giữa một đêm trăng sáng: “Khi nào có tiền mình sẽ làm nhà giống như nhà của cháu Trung (người cháu rể cùng xóm)” như đang còn ấm hơi thở. Thương nhớ con, bố mẹ anh đã hoàn thành "ngôi nhà mơ ước" ấy trước giỗ đầu của anh: Gồm hai gian thông và một gian buồng, lợp ngói tây, trên mặt bằng khoảng 45m2. Lê Thị Lạng, con gái thứ hai của anh tên mang địa danh nơi anh hy sinh-Lạng Sơn. Đến nay, căn nhà ấy đã qua 29 lần giỗ liệt sĩ Lê Văn Bẩy. Có điều, 9 năm trở lại đây, căn nhà phải chứng kiến một điều bất hạnh: Bà Nguyễn Thị Ngô (vợ anh Bẩy) bị tai biến não, nằm liệt, tay trái khoèo, ngón co quắp, chân trái bị ngắn đi. Nhờ sự cứu giúp của mọi người, nay bà đã có thể đi lại quanh nhà. Lúc nào bà cũng cần có người ở bên cạnh để trông nom vì bà bị suy tim độ 4, mỗi năm nằm viện trên dưới 10 lần. Vợ chồng người con cả cùng hai cháu nhỏ phải về cùng ở với bà. Căn nhà ấy mỗi lúc như thêm ẩm thấp, chật chội…

Còn Nguyễn Sỹ Hoan, từ sau thống nhất đất nước đã trở về ngành cũ, nay là Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt (Long Biên - Hà Nội). Cắm xong nén hương lên bàn thờ liệt sĩ Lê Văn Bẩy, anh nói với chúng tôi: “Hình ảnh và tấm gương hy sinh của anh Bẩy-người trai Hà Nội 2 lần ra chiến trường cứu nước, cùng với các liệt sĩ, thương binh khác luôn tiếp thêm sức sống cho bài giảng giáo dục lịch sử truyền thống đất nước và đạo lý "Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn" mà chúng tôi truyền thụ cho các thế hệ học sinh thân yêu”.

Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG