QĐND - Gần 10 năm trước, việc người Mông thoát nghèo ở Khu kinh tế - quốc phòng (KTQP) Đắk Ngo (huyện Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông) là chuyện hiếm. Bây giờ người Mông đang phấn đấu vươn lên làm giàu, khiến ai cũng phải ngỡ ngàng và ngưỡng mộ. Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước, sự giúp đỡ tận tình của bộ đội Binh đoàn 16, đồng bào Mông không chỉ “an cư, lạc nghiệp”, mà còn quyết tâm xây dựng các bản làng ngày càng đổi mới, phát triển trên đại ngàn.
Giúp đồng bào thoát nghèo
Khi mới về khu dự án KTQP Đắk Ngo, 100% gia đình đồng bào Mông đều thuộc diện đói kém. Thiếu tướng Nguyễn Doãn Não, Tư lệnh Binh đoàn 16 nhớ lại: “Vấn đề cấp bách của chúng tôi lúc đó là làm sao giúp bà con không bị đói, sau đó phát triển các vườn cây trong khu dự án để ổn định cuộc sống và thoát nghèo”. Điều cấp bách ấy khiến lãnh đạo, chỉ huy Trung đoàn 720 và các đội sản xuất trăn trở, thao thức cả năm liền. Vấn đề là làm cách nào giúp đồng bào không bị đói? Hướng dẫn bà con tổ chức sản xuất ra sao?
Một mặt, bộ đội tích cực giúp người Mông dựng nhà cửa, đào giếng lấy nước sạch sinh hoạt, làm nhà vệ sinh. Mặc khác, anh em tranh thủ hướng dẫn bà con quy hoạch ruộng vườn, trồng lúa ngắn ngày, trồng các loại hoa màu như đậu, lạc, khoai lang, mì (sắn) để có thể tự túc lương thực. Một số gia đình thì nuôi thêm lợn, gà, vịt, ngan… Gần 2 năm sau, 60% số hộ gia đình đồng bào Mông trong khu dự án KTQP đã có đủ gạo ăn. Số còn lại cũng không phải trợ cấp nhiều như trước nữa. Trong diện tích đất sản xuất từ 0,5 đến 1,0ha và diện tích nhận khoán chăm sóc vườn cây của Trung đoàn 720, bà con tích cực trồng cây lương thực, trồng xen hoa màu trong các lô cà phê, điều hay hồ tiêu. Đến năm thứ 4 thì có 90% số hộ tự túc được lương thực.
Trên cơ sở tổ chức các đội sản xuất, chỉ huy Trung đoàn 720 đã cử cán bộ kỹ thuật xuống các bản Mông thực hiện “4 cùng” với đồng bào. Trong các buổi sinh hoạt tổ, đội sản xuất, sinh hoạt cộng đồng, bộ đội hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản cà phê, điều, hồ tiêu. Anh em trực tiếp ra vườn cây làm cùng bà con. Đại tá Vũ Văn Mài, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 720 nói: "Khó khăn nhất trong việc triển khai sản xuất là nhiều người Mông chưa biết viết và biết nói tiếng phổ thông. Chúng tôi phải sử dụng phương pháp “cầm tay chỉ việc” giúp đồng bào". Già làng Hạng Seo Vảng ở Đội 8 tâm đắc: “Bộ đội đã giúp người Mông mình biết cách chăm sóc các vườn cây, mỗi lao động có thu nhập từ 2,1 đến 2,3 triệu đồng/tháng”. Thu nhập từ trồng xen, trồng lúa và từ chăm sóc vườn cây nhận khoán, các hộ đồng bào Mông đã có của ăn, của để. 100% gia đình mua được từ 1 đến 3 chiếc xe gắn máy. Nhiều người còn làm được nhà trị giá hơn 100 triệu đồng như gia đình của Lý Văn Sở, Thào A Sáng, Dương Thanh, Giàng A Sùng, Ma Seo Vảng, Ma Seo Dền…
 |
|
Bộ đội Trung đoàn 720 hướng dẫn bà con dân tộc Mông chăm sóc cây cao su.
|
Chuyển đổi cây trồng mới
Năm 2011, Binh đoàn 16 chủ trương phát triển trồng cây cao su ở khu KTQP Đắk Ngo. Tuy nhiên, quỹ đất còn quá ít. Không những vậy, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn lấn chiếm đất làm nương rẫy, khiến cho diện tích đất càng bị thu hẹp thêm. Trước tình hình này, chỉ huy Trung đoàn 720 tiến hành họp bàn với các già làng, trưởng bản. Cùng họ đến từng gia đình lấn chiếm đất, vận động đồng bào trả lại để lấy đất trồng cao su. Chỉ sau một thời gian ngắn, 143 hộ đồng bào Mông đã trả lại cho đơn vị 120ha đất xâm canh trái quy định.
Có đất, chỉ huy Trung đoàn 720 kịp thời cử cán bộ xuống các bản hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cao su. Đơn vị còn chủ trương sử dụng công nhân, lao động người Kinh đến vườn cây hướng dẫn thêm cho đồng bào. Tính đến hết tháng 6-2012, Trung đòan 720 đã phát triển được hơn 170ha cao su (có 150ha được một năm tuổi), trong số đó khoảng hơn 30% diện tích là do bà con dân tộc Mông trồng và chăm sóc. Anh Ma Seo Vảng ở bản Xín Chải cho chúng tôi biết: “Nhà mình trồng được 0,5ha cao su xen vào các vườn điều. Hiện cao su của mình cao hơn 2m rồi”. Còn chị Thào Thị Pa, cũng ở bản Xín Chải thì nói: “Mình trồng hơn 2,5ha cao su. Ngoài ra còn mua thêm đất để trồng hồ tiêu và bơ nữa. Chỉ 4 năm nữa cao su nhà mình sẽ được cạo mủ”.
Không chỉ phát triển cây cao su, bà con dân tộc Mông đang được Binh đoàn 16 giao đất trong dự án trồng lúa nước. Theo kế hoạch, từ nay đến hết năm, 117ha đất trong dự án trồng lúa nước ở Tiểu khu 1523 sẽ được chia cho 55 hộ mới tách ra từ Đội 4, Đội 6 và 990 nhân khẩu khác dự kiến làm ruộng nước theo tiêu chuẩn mỗi khẩu là 600m2. Trung tá Nguyễn Đình Tụ, Phó trung đoàn trưởng Trung đoàn 720 cho biết: “Ngoài việc chuyển đổi diện tích trồng điều kém hiệu quả, chúng tôi sẽ giúp đồng bào học cách cạo mủ cao su, cải tạo đất để trồng các loại cà phê năng suất cao”.
Phát triển mô hình sản xuất, kinh doanh
Đến các bản Si Át, Giang Châu hay Xín Chải những ngày này, chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện về làm ăn kinh tế của bà con dân tộc Mông. Những mô hình trồng cà phê năng suất cao, mô hình trồng xen cao su trong vườn điều, hay mô hình trồng lúa cao sản cứ cuốn hút đồng bào lên nương rẫy. Ở các bản Mông, bon của người Mơ Nông còn xuất hiện nhiều cửa hàng kinh doanh khá quy mô. Tại khu cầu Đội 6, nơi chúng tôi từng gọi là “khu siêu thị của người Mông”, những cửa hàng ở đây tràn ngập các loại hàng tiêu dùng. Chị Mùa Thị Hoa ở bản Si Át nói: “Đến đây cái gì cũng có, không phải đi xa nữa. Người Mông sản xuất giỏi, kinh doanh cũng giỏi”.
Hiện nay, trong khu dự án KTQP Đắk Ngo, nhiều hộ dân người Mông còn cùng người Kinh, người Mơ Nông tổ chức mô hình thu mua nông sản cho bà con theo giá thị trường. Điển hình như hộ gia đình anh Lý Văn Xem, Lý Văn Sở, hay Ma Seo Dền. Với mô hình này, bà con ít bị ép giá hơn, bán có lời hơn. Tuy làm ăn cũng có lúc lãi, lúc lỗ, nhưng đa số là thu được lợi nhuận khá. Với các mô hình sản xuất - kinh doanh mới, việc nhiều hộ đồng bào Mông có thu nhập mỗi năm từ 150 đến 250 triệu đồng đã trở nên khá phổ biến. Hiện đã có 10 gia đình đồng bào mua được xe ô tô, máy kéo. Hơn 60% số gia đình đã mua sắm được các loại ti vi, tủ lạnh, máy xay xát... Bây giờ, nhiều người muốn đăng ký đi học lái xe để chuẩn bị cho tương lai. Chúng tôi được biết một số hộ công nhân, hộ nhận khoán người Kinh và các hộ đồng bào Mông có ý định liên kết, hợp tác làm ăn với nhau. Nếu được sự quan tâm, hỗ trợ tốt của chính quyền địa phương, mô hình này sẽ tạo ra một động lực mới, giúp bà con thoát nghèo, làm giàu nhanh hơn nữa.
Bài và ảnh: Lê Phi Hùng