(Tiếp theo và hết)

Tổng Quân ủy bàn kế hoạch tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu tháng 1-1954. (Từ trái sang là các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Trần Đăng Ninh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh).

Sinh thời, có rất nhiều giai thoại về đồng chí Trần Đăng Ninh, đặc biệt là những giai thoại “Trần Đăng Ninh xử án”. Có người đã gọi ông là “Bao Công Việt Nam”. Chúng tôi đã hỏi Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê về điều này, ông khẳng định: “Chuyện anh Ninh xử lý nhiều vụ việc phức tạp, giải oan cho hàng trăm cán bộ là có thật và rất nhiều cán bộ được anh giải oan từ hồi ấy, đến nay vẫn còn sống. Đáng kể nhất vẫn là vụ H122 xảy ra từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp”.

 

Vụ án gián điệp H122

Tháng 10-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra nghị quyết thành lập Ban kiểm tra Trung ương do đồng chí Trần Đăng Ninh làm Trưởng ban. Trên cương vị Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, trong những năm đầu kháng chiến, đồng chí Trần Đăng Ninh đã chỉ đạo cơ quan làm tốt nhiệm vụ, giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp để đẩy mạnh kháng chiến, củng cố hậu phương. Điển hình như việc có người kiện kỹ sư Võ Quý Huân, một trí thức Việt kiều ở Pháp, theo Bác Hồ về tham gia kháng chiến, tội “tham ô”. Bác Hồ yêu cầu đồng chí Trần Đăng Ninh đi kiểm tra. Bằng nhãn quan nhạy bén của mình, Trần Đăng Ninh nhận định: “Một người đã từ bỏ mọi vinh hoa, phú quý ở Pa-ri để về tham gia kháng chiến thì khó trở thành kẻ tham ô”. Từ đó, đồng chí kiểm tra chặt chẽ và đi đến kết luận: Kỹ sư Võ Quý Huân không tham ô, nhưng do mới về nước, được gia đình đài thọ nên ông vẫn giữ nếp sống khá giả của người trí thức Tây học khiến nhiều người ganh tỵ và nghĩ oan cho ông.

Trong các vụ việc đồng chí Trần Đăng Ninh đã “xử”, việc anh kiểm tra và giải quyết “vụ án gián điệp H122” là một sự việc nổi bật, gây ấn tượng sâu sắc, giúp tăng cường sự tin tưởng và đoàn kết trong nội bộ Đảng và Quân đội, mà đến ngày nay, vẫn còn nhiều người nhắc đến, khâm phục và ca ngợi.

Chuyện là vào đầu Thu Đông năm 1948, cơ quan Quân báo nhận được tin “mật” về việc Phòng nhì Pháp đã gài được người của chúng mang bí số H122 vào cơ quan chỉ huy của ta ở Liên khu Việt Bắc và H122 đã lấy được báo cáo tin tức và kế hoạch quân sự Thu Đông năm 1948 của ta gửi cho địch.

Bộ tư lệnh Liên khu liền giao cho cơ quan Quân báo Liên khu kết hợp với công an khẩn trương điều tra. Một số người có nghi vấn đã bị bắt và xét hỏi, trong đó cả người tự nhận là gián điệp H122. Vụ án được khai thác mở rộng. Trong hơn một tháng, hàng trăm cán bộ và chiến sĩ quân đội thuộc 5 trung đoàn chủ lực đã bị bắt, thẩm vấn. Chồng hồ sơ về những người bị tình nghi ngày càng chất cao. Nhiều người nhận mình vừa là nhân viên của Phòng nhì Pháp, vừa là đảng viên Quốc dân Đảng. Việc bắt bớ người tràn lan đang tiếp diễn, diện nghi vấn đã lan đến một số cán bộ chỉ huy trung đoàn và cán bộ tham mưu Quân khu Việt Bắc.

 

Nghịch lý: Ai cũng nhận tội!

Trước tình hình phức tạp và nghiêm trọng như vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao đồng chí Trần Đăng Ninh kiểm tra vụ việc.

Nhận nhiệm vụ, đồng chí Ninh gấp rút tổ chức một đoàn công tác gồm cán bộ của Ban Kiểm tra Trung ương, của Bộ Quốc phòng, Quân khu Việt Bắc, Nha Công an Trung ương, Sở Công an Liên khu Việt Bắc, Liên khu ủy Việt Bắc và các tỉnh ủy nơi có vụ án.

Việc làm đầu tiên là đồng chí Trần Đăng Ninh ra lệnh tạm dừng các vụ bắt bớ, phân công đoàn kiểm tra bắt tay vào công việc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trần Đăng Ninh, cả đoàn kiểm tra đã làm việc khẩn trương, liên tục không kể ngày đêm, cố gắng giải quyết xong vụ án trước khi giặc Pháp có thể mở chiến dịch tấn công.

Đồng chí Trần Đăng Ninh đã nghe các cán bộ có trách nhiệm của Liên khu báo cáo, nghiên cứu các bản khai và trực tiếp hỏi những người bị bắt. Những tuần đầu, đoàn không phát hiện ra điều gì mới, vì những người bị bắt vẫn khai đúng như điều họ đã thú nhận với cán bộ điều tra của Liên khu. Cả đoàn cùng kiên trì kiểm tra lại, phát hiện thấy lời cung của nhiều người gần giống nhau. Ai cũng nhận mình là gián điệp của Pháp và là đảng viên Quốc dân đảng. Họ khai rằng, tổ chức phản động Quốc dân đảng trong quân đội ta lúc ấy có từ chi bộ ở đại đội lên tiểu đoàn ủy, trung đoàn ủy. Trong số những người bị bắt có một số là đảng viên cộng sản, có cả những cán bộ hoạt động từ thời kỳ bí mật, có người từng bị thực dân Pháp bắt bỏ tù. Vậy những người bị bắt có phải gián điệp của Pháp thật không? Có phải địch không? Nhiều nghi vấn được đặt ra. Làm gì mà có nhiều gián điệp như vậy? Đã có nơi tình báo thực dân phối hợp hoạt động với đảng phái phản động? Quân đội ta, một quân đội cách mạng được xây dựng gồm những quần chúng cơ bản trong công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh được Đảng và Bác Hồ chăm lo giáo dục, rèn luyện, được thử thách qua chiến đấu, có thể nào lại có nhiều người dễ bị lung lạc như thế? Làm thế nào mà bọn đảng phái phản động lại có thể dễ dàng chui được vào quân đội ta, lôi kéo được nhiều người theo chúng để tổ chức ra một hệ thống tổ chức từ đại đội đến trung đoàn? Vậy thì lời khai của những người bị bắt đúng hay sai? Tại sao họ lại dám nhận lấy những tội ác đó?

Trước những điều nghi vấn, Trần Đăng Ninh rất thận trọng, không để những nghi vấn đó làm chệch mục tiêu điều tra là phát hiện những tên phản động chui vào nội bộ quân đội khi những nghi vấn đó chưa được giải đáp. Trần Đăng Ninh đề phòng quân địch làm rối loạn đội ngũ của ta để che giấu tay chân của chúng.

Đồng chí đã phân công thành viên đoàn kiểm tra đến các địa phương và đơn vị có người bị bắt thẩm tra lại tình hình và xác minh những điều nghi vấn. Đồng chí trực tiếp gặp người tự nhận là H122 và đến xem xét nơi tên gián điệp đã nhận làm hiệu cho máy bay bắn phá, thì thấy “tên gián điệp H122” không có vẻ gì là ghê gớm, mà vẫn trông giống anh chiến sĩ nông dân, nom có vẻ khù khờ. Anh này vốn là giám mã của Bộ tư lệnh Quân khu. Nơi anh ta nhận “vẫy khăn trắng” làm hiệu cho máy bay địch là một cái sân nhỏ rộng bằng bốn cái chiếu, xung quanh cây cối um tùm, đứng trên cao cũng khó mà nhìn thấy được.

 

Bắt đầu từ điệp viên “Cây đa áo tím”

Trong số những người bị bắt và tra hỏi, có một cô gái tên là H, biệt hiệu là “Cây đa áo tím”. Cô cùng mẹ tản cư ở miền xuôi lên, mở cửa hàng giải khát cạnh cây đa cổ thụ ở Cao Vân trên đường từ Đại Từ đến Đèo Khế. Cửa hàng của cô rất đông khách, cán bộ, bộ đội qua lại nhộn nhịp. Cô bị nghi ngờ là một cơ sở của địch tổ chức để dò la tin tức và làm trạm liên lạc. Một tổ điều tra được phái tới quán hàng khám xét, tìm thấy khá nhiều thư của các cán bộ quân đội, đoàn thể, chính quyền gửi cho cô, trong đó có những điểm cơ quan điều tra nghi vấn là có dấu hiệu bí mật. Cơ quan điều tra đã tìm hiểu mối quan hệ của cô H với các quân nhân bị bắt. Sau khi nghiên cứu kỹ thì thấy H là cô gái trẻ đẹp, duyên dáng nên được nhiều khách hàng là bộ đội, cán bộ của ta để ý, tán tỉnh. Một số người xưng danh, khoe khoang chức vụ, làm lộ địa điểm cơ quan, đơn vị... cũng chỉ mong người đẹp để ý đến mình. Nếu là cơ sở của địch thì không khi nào giữ lại những bức thư như vậy.

Đồng chí Trần Đăng Ninh đã nhiều lần gặp các cán bộ điều tra của Quân khu, hỏi han rất kỹ, nhất là với các trường hợp nghi vấn và kiểm tra lại phương pháp làm việc của họ. Đồng chí cũng trực tiếp gặp từng đảng viên cộng sản và cán bộ chỉ huy bị bắt, tự giới thiệu là người được Bác Hồ cử tới tra xét vụ này, động viên họ khai lại cho đúng sự thật.

Với kinh nghiệm thực tế bị tù đày nhiều lần, đã từng bị mật thám Pháp tra khảo, mớm cung, dùng mọi thủ đoạn để khai thác tài liệu nên Trần Đăng Ninh phát hiện ra một điều: Sở dĩ vụ án lan rộng, bắt bớ tràn lan vì cán bộ điều tra thiếu kinh nghiệm, áp dụng những biện pháp thô bạo như dùng nhục hình, mớm cung, ép cung nên người này khai ra người khác, đơn vị này lan sang đơn vị khác một cách bất tận.

Năm 1950, đồng chí Trần Đăng Ninh được Bác Hồ và Trung ương Đảng tin tưởng điều sang công tác trong quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp và tham gia Tổng quân ủy (gồm ba đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh). Ông là Trưởng ban Cung cấp trong Chiến dịch Biên giới (1950). Trong Đại hội Đảng lần thứ II, ông tiếp tục được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng. Ông cũng chính là nguời tổ chức và xây dựng hệ thống dân công tiếp tế, một yếu tố quan trọng dẫn đến thắng lợi cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Do công lao to lớn của ông, năm 2009, Chủ tịch nước đã ký quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng cho đồng chí Trần Đăng Ninh.

Thật vậy, anh giám mã của cơ quan Quân khu đã trở thành “gián điệp H122” vì khi thấy máy bay địch bay qua khu vực đóng quân của cơ quan, anh chạy vội ra cất chiếc khăn mặt trắng phơi ở dây ngoài và kêu lên “máy bay, máy bay”. Có người trông thấy, nghi ngờ là anh vẫy khăn làm hiệu cho máy bay, đã báo cho cán bộ điều tra. Anh này bị bắt, bị tra tấn đau quá, theo lời mớm cung và truy ép, anh phải nhận làm nội gián cho Pháp, làm ám hiệu cho máy bay rồi nhận là H122. Hỏi đến tổ chức, lại bị tra tấn, anh ta khai liều ra một số cán bộ, chiến sĩ đến công tác ở quân khu mà anh ta quen biết. Những người này bị bắt, bị truy ép và tra tấn lại khai ra những người mới...

Anh V, trưởng ban tình báo một trung đoàn cũng ở trong số những người bị bắt. Anh này vốn có tính ba hoa, bị tra khảo nhiều quá, anh ta dựa vào hệ thống tổ chức của Đảng ta trong quân đội, khai bừa đó là hệ thống tổ chức Quốc dân đảng từ đại đội đến trung đoàn cũng giống như Đảng ta. Vốn là trưởng ban tình báo trung đoàn, bị tra tấn và ép cung, anh nhận mình là trưởng ban ám sát của trung đoàn ủy Quốc dân đảng, đang âm mưu ám sát “ông nhất”, “ông nhì” của Quân khu. V khai ra một số đông bạn bè, qua đặc tính từng người để đặt cho họ một bí danh. Ví dụ, anh A, hay uống rượu, cao 1,7 mét thì gọi là R170; anh B, nghiện thuốc lào, cao 1,65 mét, V khai bí danh là TL165, rồi tìm cách thông tin cho người mình khai. V nhớ thuộc lòng bí danh từng người theo cách này, mỗi lần bị tra hỏi lại, V đều khai đúng như vậy khiến cán bộ điều tra tin là thật. V cố khai ra nhiều bạn bè, kể cả cấp trên với hy vọng rằng, những người này được tha, thì mình cũng được tha!

Cơ quan Quân khu càng điều tra, bắt bớ càng làm cho tình hình rối ren thêm, không thể giải quyết được và phải báo cáo lên Trung ương.

 

Hàng trăm cán bộ được giải oan

Sau gần 3 tháng làm việc căng thẳng, đồng chí Trần Đăng Ninh cùng đoàn kiểm tra từng bước tiếp cận được sự thật và cuối cùng đi đến kết luận: Không có gián điệp H122 và cũng không có tổ chức Quốc dân đảng chui vào quân đội ta. Do sơ hở của ta, ở một vài nơi nào đó, không loại trừ khả năng có những tên phản động lọt được vào hàng ngũ ta để dò la tin tức hoặc phá hoại, điều này cần được theo dõi và thẩm tra thêm nhưng việc địch tổ chức được một hệ thống gián điệp tràn lan trong các đơn vị bộ đội của ta thì không thể có được. Đa số những quân nhân bị bắt là vô tội, không có vấn đề chính trị phản động hoặc hoạt động cho địch. Sau khi báo cáo xin chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Bác Hồ, đồng chí Trần Đăng Ninh đã ra lệnh thả hết những người bị bắt oan. Đồng chí đã an ủi, động viên họ và giao cho cơ quan có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe và giải quyết công tác cho họ. Đồng chí Trần Đăng Ninh cũng gặp riêng các đảng viên bị bắt oan, thăm hỏi nhưng cũng phê bình họ về khuyết điểm đã không giữ vững tinh thần, khai báo sai sự thật, gây thêm khó khăn cho Đảng.

Các đồng chí được giải oan rất xúc động trước sự săn sóc ân cần và những lời chỉ bảo chí tình của đồng chí Trần Đăng Ninh. Nhiều đồng chí sau này đã trở thành cán bộ cao cấp của quân đội. Còn những cán bộ có trách nhiệm điều tra vụ án của Quân khu Việt Bắc phạm sai lầm đã bị xử lý kỷ luật.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo kịp thời và sáng suốt của Trung ương Đảng và Bác Hồ, có sự chỉ đạo sắc sảo, kiên quyết và khoa học của anh Trần Đăng Ninh, vụ án gián điệp rất phức tạp và rối ren đã được giải quyết gọn ghẽ và đúng đắn trong một thời gian tương đối ngắn. Sau vụ này, đồng chí Trần Đăng Ninh còn trực tiếp giải quyết hàng chục vụ án phức tạp khác bằng những phán đoán rất tài tình nên nhiều người ca ngợi anh là “Bao Công Việt Nam”.

HỒNG HẢI 

Người cộng sản Trần Đăng Ninh (Kỳ 1)