Có lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết về đồng chí Trần Đăng Ninh: Anh là mẫu người mà Bác Hồ muốn xây dựng cho xã hội mới. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 99 ngày sinh, kỷ niệm 54 năm ngày mất (6-10-1955) của đồng chí Trần Đăng Ninh, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã gặp và được xem hồi ký, nhật ký của một số cán bộ lão thành cách mạng từng có thời gian công tác gần gũi với ông. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những câu chuyện còn ít được biết đến về người cộng sản Trần Đăng Ninh.
“Nhìn thấu” kẻ phản động
Năm nay đã ngoài 80 tuổi nhưng Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 1, nguyên thư ký của đồng chí Trần Đăng Ninh thời kỳ 1949-1950, vẫn giữ được giọng nói sang sảng. Khi chúng tôi nhắc đến đồng chí Trần Đăng Ninh, ông lộ rõ niềm vui:
- Viết về anh Ninh ấy à! Nhiều chuyện lắm. Cuộc đời anh ấy là một cái kho giai thoại và danh hiệu. Nào là “Bao Công Việt Nam”, “Sứ giả đại đoàn kết”, rồi “Ông Đặc ủy”... Biết kể cho các anh nghe chuyện nào nhỉ? Thôi được, để cho chính xác, các anh bắt đầu từ tập tài liệu này nhé.
 |
Đồng chí Trần Đăng Ninh (bên trái) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Chiến khu Việt Bắc thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Ảnh tư liệu
|
Ông đưa cho chúng tôi xem tập tài liệu gồm những hồi ức, nhật ký của nhiều đồng chí là cán bộ lão thành cách mạng, từng có thời gian công tác gần gũi với đồng chí Trần Đăng Ninh trong thời kỳ Đảng ta hoạt động bí mật, trong kháng chiến chống Pháp và cả những đoạn ghi chép của ông và giáo sư Ngô Vi Thiện (cũng từng là thư ký riêng của đồng chí Trần Đăng Ninh trong thời kỳ 1950-1955) do chính đồng chí Trần Đăng Ninh kể lại vào những ngày tháng cuối đời.
Biết bao câu chuyện xúc động, ly kỳ về cuộc đời hoạt động của người cộng sản kiên cường, bất khuất, mưu lược, liêm khiết và sâu nặng ân tình Trần Đăng Ninh đã hấp dẫn chúng tôi.
Khoảng giữa năm 1941, Xứ ủy Bắc Kỳ tổ chức hội nghị mở rộng ở Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc). Ngoài 5 đồng chí trong Thường vụ còn mời một số đại biểu có liên quan. Hội nghị vừa họp thì tên Công (là gián điệp, lúc này chưa lộ mặt phản động, đang được Xứ ủy Bắc Kỳ cử đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5-1941) theo đường “giao thông” cũ, về được tới cơ quan của Xứ ủy ở Vĩnh Yên và vào tới địa điểm Hội nghị.
Lúc này, Hội nghị chỉ biết Công là cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ được đi họp Hội nghị Trung ương 8 ở biên giới nên háo hức muốn biết tin tức Hội nghị Trung ương, đã cho hắn tham gia Hội nghị Xứ ủy một cách vô nguyên tắc.
Công than phiền một cách hằn học là các đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ bỏ công, bỏ việc ra đi mà không được dự Hội nghị, cũng không được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, chỉ được học tập nghị quyết vài ngày rồi về. Công nói lập lờ, cố tình xuyên tạc nội dung Hội nghị Trung ương 8, thuyết phục mọi người trong Xứ ủy là Đảng ta đã từ bỏ “đường lối quốc tế” để nghiêng hẳn về “đường lối quốc gia”.
Lúc đó, đồng chí Bí thư Xứ ủy vốn đang “hậm hực” với Trung ương vì lần trước đi cùng đồng chí Hoàng Văn Thụ ra nước ngoài, cũng không được tham gia Hội nghị, không được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc nên đã phụ họa ý kiến của Công. Từ đó, đồng chí Bí thư Xứ ủy đề nghị hội nghị biểu quyết một số vấn đề có tính chất chia rẽ nội bộ như đề nghị “xử lý kỷ luật cả cấp Trung ương do vi phạm nguyên tắc”, đòi phải “chất vấn Trung ương sau khi trở về”.
Trong hội nghị đã có một số đồng chí đồng tình với Bí thư Xứ ủy, cho rằng “Trung ương coi thường Xứ ủy Bắc Kỳ”.
Đồng chí Trần Đăng Ninh, lúc này là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ đã bình tĩnh phân tích ý kiến của Công, nêu lên một số thắc mắc về thái độ hằn học, kích động của anh ta và cho đó là biểu hiện không bình thường. Đồng chí đề nghị Xứ ủy phải bình tĩnh, chưa biểu quyết vấn đề gì vội trước khi có đại biểu Trung ương trở về. Với sự phân tích sắc sảo của Trần Đăng Ninh, đa số đại biểu dự hội nghị đã biểu quyết tán thành ý kiến của anh.
Ngay sau hội nghị này, Xứ ủy Bắc Kỳ mới biết tên Công là AB (tổ chức chống cộng sản), đã đầu hàng địch, chui sâu vào hàng ngũ của Đảng ta từ phong trào công khai 1936-1939. Công đã chỉ điểm cho địch biết được đường đi về của đại biểu dự Hội nghị Trung ương 8 nên địch đã vây ráp, càn quét vùng Bắc Sơn, chặn đường hòng bắt toàn bộ cơ quan đầu não của Đảng. Nhiều đại biểu dự hội nghị Trung ương 8 đã sa vào tay địch.
Trung ương đã nghiêm khắc phê bình Xứ ủy Bắc Kỳ khi cho tên Công dự hội nghị mở rộng một cách vô nguyên tắc, cách chức đồng chí Bí thư Xứ ủy. Cũng qua sự kiện này, ý thức kỷ luật và tinh thần sáng suốt, phản ứng nhạy bén của đồng chí Trần Đăng Ninh đã giúp Xứ ủy Bắc Kỳ tránh được một nghị quyết tai hại, có thể dẫn tới hàng loạt phản ứng tiêu cực ở các tổ chức cơ sở.
Chặn địch, giải thoát cho đồng đội
Sau vụ việc tên Công, Trung ương Đảng triệu tập hội nghị ở Từ Sơn, phổ biến nghị quyết Trung ương 8, giải tán Xứ ủy Bắc Kỳ cũ, thành lập Xứ ủy Bắc Kỳ mới. Đồng chí Trần Đăng Ninh được bầu vào Trung ương Đảng, thường trực tại cơ quan Trung ương. Sau đó diễn ra sự kiện địch tấn công căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai, đồng chí Phùng Chí Kiên hy sinh. Trung ương điều động đồng chí Đào Văn Trường, Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ lên thay đồng chí Phùng Chí Kiên. Đồng chí Trần Đăng Ninh ở “nhà”, ra sức quyên góp, tập trung những thứ cần thiết gửi lên giúp đỡ Bắc Sơn – Võ Nhai.
Tháng 10-1941, đồng chí Đào Văn Trường cùng đồng chí Trần Đăng Ninh được một đồng chí giao thông viên đưa về một cơ sở cách mạng ở bãi Phúc Xá (Hà Nội) để nắm tình hình và lấy hàng hóa ủng hộ căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Chẳng may, địch đã giăng sẵn “bẫy” hòng bí mật bắt gọn hai cán bộ cấp cao của Đảng. Đồng chí giao thông viên bị địch bí mật bắt gọn. Đến lượt Trần Đăng Ninh vừa bước vào đến cửa thì thấy có người xông ra. Anh phản xạ rất nhanh, hô to “chạy”, rồi dũng cảm đánh nhau tay không với địch, bịt chặt cửa ra vào để đồng chí Đào Văn Trường chạy thoát.
Trong nhật ký viết cách đây đã 68 năm, đồng chí Đào Văn Trường viết: “Ngày 5-10 (1941). Thoát chết! Đã chui vào bẫy chuột của địch ở... Mình chạy nhanh thật! Thế là X (tức Trần Đăng Ninh - PV) công nhân bị rồi! Biết bao giờ đào tạo được con người trưởng thành trong đấu tranh, tốt và tinh thần như vậy được! Thương quá! Thế nào anh ấy cũng bị bắn thôi!”.
Nhưng Trần Đăng Ninh đã không bị xử tử. Theo đồng chí Lê Quốc Thân, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, người bị bắt cùng đợt với đồng chí Trần Đăng Ninh (nhưng ở một vụ khác) cho biết: Địch tra tấn anh Ninh vô cùng dã man. Anh chết đi, sống lại nhiều lần. Địch đoán anh là cán bộ cấp cao của Đảng nên dùng tất cả những ngón đòn tra tấn khốc liệt nhất nhưng anh giữ khí tiết của mình, kiên quyết không khai báo điều gì khiến địch buộc phải để anh ký vào biên bản hỏi cung mà không có nội dung gì cụ thể. Cũng vì thế, khi đưa ra tòa, địch chỉ có thể kết án anh 20 năm tù khổ sai và 20 năm biệt xứ. Tại nhà tù Hỏa Lò, Trần Đăng Ninh được chỉ định vào cấp ủy của tổ chức Đảng trong tù, tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh tuyệt thực 5 ngày vào giữa năm 1942. Sau đó, anh Ninh bị chuyển lên nhà tù Sơn La. Tại đây, anh được tổ chức Đảng trong nhà tù giao nhiệm vụ tổ chức chuyến vượt ngục trở về hoạt động. Anh Ninh cùng các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiểu trốn thoát trở về miền xuôi, bắt liên lạc với Trung ương và Xứ ủy tiếp tục hoạt động, phát triển phong trào cách mạng. Đây cũng là chuyến vượt ngục duy nhất thắng lợi của ta từ khi địch xây dựng nhà tù Sơn La.
“Sứ giả” tài ba
Năm 1947, thực dân Pháp ra sức lôi kéo các “nhà Lang” vùng Tây Bắc (những người đứng đầu các vùng dân tộc và tôn giáo) theo chúng để thành lập “xứ Mường tự trị”.
Bác Hồ cử đồng chí Trần Đăng Ninh làm đặc phái viên đi thuyết phục ông Đinh Công Phủ, một “nhà Lang” có thế lực lớn ở vùng Đà Bắc (Hòa Bình). Trước đó, dịp 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, bọn lính Pháp ở Phú Thọ bỏ đồn chạy lên Sơn La. Khi qua Đà Bắc, ông Đinh Công Phủ đã mời chúng uống rượu say, rồi cho chân tay giả vờ là quân Nhật đến. Bọn Pháp sợ quá, bỏ súng chạy thoát thân. Ông Phủ chiếm được 70 khẩu súng, trở thành một thế lực tự trị ở vùng Đà Bắc. Cách mạng Tháng Tám thành công, Đinh Công Phủ ngả theo cách mạng, được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Hòa Bình nhưng khi kháng chiến nổ ra, ông lại hoang mang, trốn về quê, không ra công tác nữa. Đồng chí Trần Đăng Ninh đã đến củng cố cho Đinh Công Phủ lòng tin và quyết tâm đi theo kháng chiến. Âm mưu của thực dân Pháp không thực hiện được.
Ở Hà Giang có ông Vương Chí Sình, một “Thổ ty” có thế lực lớn tự xưng là “vua Mèo”, trấn giữ một vùng giáp biên với Trung Quốc. Ông Sình đã đi theo cách mạng, được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn. Khi kháng chiến nổ ra, Vương “cát cứ” ở một vùng, tham gia vào hoạt động kháng chiến rất hạn chế. Khi giặc Pháp chiếm được Lào Cai, chúng tìm cách mua chuộc Vương theo chúng làm lực lượng đánh ta từ phía sau lưng để bịt chặt biên giới. Tháng 9-1947, Bác Hồ lại cử đồng chí Trần Đăng Ninh làm đặc phái viên lên gặp Vương Chí Sình để thuyết phục, chỉ dẫn, củng cố cho Vương quyết tâm đi theo kháng chiến, phá âm mưu “chia để trị” của Pháp.
Vâng lệnh Bác Hồ, đồng chí Trần Đăng Ninh đã vượt qua bao đèo cao, suối sâu, vào tận “đại bản doanh” của Vương Chí Sình nhưng Vương cáo ốm, không tiếp. Qua tìm hiểu, đồng chí Trần Đăng Ninh đã liên hệ với bà Síu, là mẹ vợ, đồng thời là người có tầm ảnh hưởng rất lớn đến Vương Chí Sình. Thông qua bà Síu, Trần Đăng Ninh viết thư gửi Vương Chí Sình: “Gửi ông Vương Chí Sình. Tôi là đại diện Chính phủ, được Cụ Hồ cử lên đây để báo cho ông biết rằng, ông được Chính phủ giao cho cai quản một phần bờ cõi của đất nước. Đó là một trọng trách. Nay quân giặc đã đến gần địa phận của ông. Chính phủ cử đại diện lên để thảo luận với ông cách chống giặc, cớ sao ông không ra tiếp đại diện Chính phủ? Nói cho ông biết, để quân giặc xâm phạm vào bờ cõi là một tội nặng. Vậy tùy ông xử trí. Ký tên: Trần Đăng Ninh”.
Sau đó, Trần Đăng Ninh quyết định quay về Hà Giang, cùng các đồng chí trong Tỉnh ủy bàn cách giải quyết trong trường hợp xấu. Thật may, chiến thuật “dùng người có ảnh hưởng lớn đến Vương để điều khiển” của Trần Đăng Ninh đã thành công. Vương không cộng tác với địch. Sau này, khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ông Vương Chí Sình về Hà Nội họp đã tìm gặp đồng chí Trần Đăng Ninh để xin lỗi...
Đồng chí Trần Đăng Ninh (1910-1955) là Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (1950 - 1955), sau là Tổng cục Hậu cần. Ông tên thật Nguyễn Tuấn Đáng, quê tại xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930. Tháng 5-1941, ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Tháng 3-1945, sau khi vượt ngục lần hai khỏi nhà tù thực dân, ông được cử làm ủy viên Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ, phụ trách chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tháng 8-1945, ông được cử vào Tổng bộ Việt Minh, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ông được Bác Hồ cử làm Đặc phái viên vào công tác ở Trung Bộ và Nam Bộ. Khi chuẩn bị kháng chiến, ông nhận nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Phó tổng thanh tra Chính phủ (1946 - 1949).
(còn nữa)
HỒNG HẢI