Người cộng sản kiên cường

QĐND - Đồng chí Võ Chí Công tên thật là Võ Toàn, sinh ngày 7-8-1912 tại làng Tam Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ (nay là huyện Núi Thành), tỉnh Quảng Nam. Hầu hết các thành viên trong gia đình của đồng chí Võ Chí Công đều tham gia hoạt động yêu nước và cách mạng. Thân phụ của đồng chí là ông Võ Dương, tham gia Hội Duy Tân, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và cả phong trào Vận động cải cách của Phan Chu Trinh. Năm 1935, ông Võ Dương trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Thân mẫu của đồng chí Võ Chí Công là bà Nguyễn Thị Thân, một phụ nữ hết lòng thương yêu và giúp đỡ cả chồng và con làm cách mạng. Bốn người em của đồng chí đều tham gia hoạt động cách mạng, trong đó cả hai người em trai đều hy sinh. 

Được hun đúc bản lĩnh từ truyền thống quê hương và gia đình, đồng chí Võ Chí Công tham gia các hoạt động yêu nước và cách mạng từ tháng 5-1930, khi đồng chí còn là học sinh. Năm 1932, cha bị bắt, đồng chí đang đập đá làm đường xe lửa ở đèo Đại Lãnh, bị mất liên lạc nhưng vẫn hăng hái tự hoạt động gây dựng phong trào trong công nhân đường sắt Khánh Hòa. Tháng 5-1935, sau khi liên lạc được với tổ chức đảng, đồng chí  được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ở Chi bộ Tam Mỹ rồi làm Bí thư Chi bộ. Cơ sở đảng nhiều lần bị đánh phá, nhiều cán bộ, quần chúng cơ sở bị bắt, đồng chí không quản nguy hiểm, nhiều lần chắp mối liên lạc, khôi phục tổ chức và trở thành Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam.

Đồng chí Võ Chí Công thăm xã Phước Trà (huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam) năm 1991. Ảnh tư liệu

 

Từ năm 1941, đồng chí tham gia Xứ ủy Trung kỳ, bị bắt đêm 19-12-1943, kết án chung thân, đày đi Buôn Ma Thuột. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, đồng chí trở lại hoạt động ở Quảng Nam và lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở đây.

Sau ngày UBND Cách mạng Lâm thời Quảng Nam được thành lập và trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, đồng chí Võ Chí Công được giao nhiều trọng trách trong công tác Đảng và công tác quân sự. Giữa năm 1954, đồng chí là Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy Khu 5, được phân công chỉ đạo công tác trong vùng địch và chuẩn bị các mặt công tác cho vùng tự do Khu 5 chuyển hướng hoạt động sau Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Những năm 1956-1958, đồng chí là Phó bí thư Liên khu ủy Khu 5 và đã có nhiều ý kiến đóng góp cho Nghị quyết 15 ra đời (1959), chuyển cách mạng miền Nam sang giai đoạn mới và đồng chí được chỉ định là Bí thư Liên khu ủy. Đồng chí đã tích cực tìm tòi, sáng tạo để đưa Nghị quyết 15 đến tận cơ sở, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng âm ỉ cháy lâu nay thành phong trào cách mạng sang thế tiến công.

Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, đồng chí Võ Chí Công được bầu vào BCH Trung ương Đảng và được chỉ định làm Phó bí thư Trung ương Cục, Bí thư Khu ủy Khu 5. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí cùng với Thường vụ Khu ủy, Khu 5 đã dấy lên phong trào phá kìm kẹp, phá ấp chiến lược, bước đầu khôi phục và phát triển phong trào ở vùng đồng bằng, áp sát các trung tâm đô thị, đưa phong trào lên thế phát triển mới.

Tháng 3-1965, Mỹ đưa quân vào miền Nam. Khu 5 là nơi đối đầu trực tiếp trước tiên với quân viễn chinh Mỹ. Đồng chí luôn bám sát tình hình và khẳng định quyết tâm dám đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ.

Từ thực tế chiến trường Khu 5, kinh nghiệm đánh Mỹ được phổ biến trên toàn miền Nam bằng thế trận chiến tranh nhân dân thiên la địa võng “Hai chân, ba mũi giáp công”, thực hiện làm chủ ba vùng chiến lược. Khu 5 đã đi đầu diệt Mỹ từ trận đầu Núi Thành thắng lợi, cho đến ngày hoàn toàn giải phóng Khu 5 (4-4-1975), tên tuổi Bí thư Khu ủy Võ Chí Công luôn gắn liền với những chủ trương chiến lược lớn đưa đến thắng lợi của quân dân Khu 5, góp phần vào thắng lợi chung vĩ đại của cả dân tộc.

Nhà lãnh đạo sâu nặng nghĩa tình với nhân dân

Ở những thời điểm khó khăn nhất, tại những địa bàn nóng bỏng nhất, đồng chí Võ Chí Công luôn chia sẻ những khó khăn nguy hiểm với đồng chí, đồng bào, chiến sĩ. 

Những năm 1941-1943, cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam bị đánh phá khốc liệt, nhiều tỉnh ủy viên bị bắt, đồng chí đã dựa vào cơ sở quần chúng để gây dựng lại phong trào cách mạng, lặn lội hết làng này sang phủ khác để giữ liên lạc từ tỉnh, huyện đến cơ sở, từng bước ổn định tình hình tư tưởng và bàn kế hoạch chống địch khủng bố, lập lại cơ quan.

Với tác phong bám nắm cơ sở, không chỉ trong những ngày hoạt động bán vũ trang mà kể cả khi chỉ huy các chiến dịch lớn, đồng chí cũng thường xuyên có mặt "đứng mũi chịu sào" ở những nơi “đầu sóng ngọn gió”. Việc thường xuyên sâu sát phong trào, gần gũi nhân dân đã giúp đồng chí nhận rõ những yêu cầu từ thực tiễn đấu tranh để có sự chỉ đạo kịp thời đúng đắn và đồng thời cũng nhận được những tình thương yêu, mến phục của đồng bào, đồng chí với tên gọi thân thương: "Anh Năm Công". 

Theo hồi ức của những người đã từng được gần gũi đồng chí Võ Chí Công trong những năm chiến đấu gian khổ, đều có chung nhận xét, đồng chí là người có tính khí “con nhà võ” nhưng tràn đầy tình yêu thương đồng chí, đồng bào. Nét mặt luôn tươi cười, giọng nói ấm áp, sảng khoái, vang to. Là người hành động quyết đoán, nhưng đồng chí không độc đoán, chủ quan, áp đặt, mà luôn lắng nghe cấp dưới, tiếp thu những đề xuất, cái đúng được chấp nhận, cái chưa đúng được phân tích sâu sắc, giải thích cặn kẽ trước khi quyết định. 

Đặc điểm nổi bật ở đồng chí là người chiến sĩ cách mạng rất khắt khe với bản thân, tuyệt nhiên không cho phép mình, cũng như không đòi hỏi bất cứ một đặc lợi gì riêng, nhưng lại bao dung, độ lượng với mọi người...

Một thế kỷ, một đời người gắn với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, sâu nặng nghĩa tình với nhân dân, đồng chí Võ Chí Công - người con ưu tú của quê hương xứ Quảng anh hùng - một nhà lãnh đạo tài năng và đức độ đã nêu tấm gương sáng về niềm tin và ý chí cách mạng.

Ngô Vương Anh