QĐND - Bản Dốc Mây thuộc xã miền núi Trường Sơn (huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) nằm sâu giữa đại ngàn Trường Sơn. Đồng bào ở đây chủ yếu là tộc người Vân Kiều, cuộc sống còn rất nhiều khó khăn và lạc hậu, nhất là về đời sống văn hóa. Từ khi Đại úy Trần Hữu Chung, cán bộ Đồn Biên phòng 597-Đồn Biên phòng Làng Mô (Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Quảng Bình) lên cắm bản, cuộc sống của bà con đổi thay trông thấy. Người lớn và trẻ em đã biết cái chữ Bác Hồ, bản làng khang trang hơn, đồng bào biết cách làm ăn, ai cũng biết ơn người cán bộ biên phòng hết lòng vì dân bản.
Trong ánh lửa đèn dầu
Để lên được bản Dốc Mây, từ sáng sớm ở trung tâm xã, chúng tôi theo chân các chiến sĩ Đồn Biên phòng Làng Mô luồn rừng leo dốc hơn chục cây số, đến trưa mới tới nơi. Đường sá rất khó đi, phải lội suối, băng qua thác ghềnh và trèo trên những vách đá tai mèo nhọn sắc. Lên đến đỉnh núi vờn mây trắng, nhìn xuống thung lũng, bản Dốc Mây thấp thoáng dưới chân núi, nhà sàn mái tôn xen lẫn mái tranh. Nổi bật giữa bản là cái nhà sàn rộng nhất, đó chính là “lớp học tổng hợp” của thầy giáo Chung.
Cách đây dăm năm, Đại úy Trần Hữu Chung được chỉ huy đồn cử lên Dốc Mây cắm bản. Mới đặt ba lô xuống sàn nhà trưởng bản, nhìn bao quát xung quanh, anh thấy quanh bản rất mất vệ sinh, người dân sống hoang dã. Lợn, gà nuôi dưới gầm nhà, bò thả rông, phân tro không biết bao nhiêu năm chưa dọn, cỏ dại mọc um tùm từ đầu ngõ đến chân cầu thang. Lũ trẻ con đen nhẻm và nhếch nhác, tròn xoe mắt tò mò nhìn anh bộ đội mới đến. Trời rét ngọt, nhưng ít đứa mặc quần áo, có em cầm củ sắn sống nhai rau ráu, Chung thấy thật nao lòng.
 |
Trẻ em bản Dốc Mây bịn rịn chia tay thầy giáo Chung. Ảnh: Mạnh Quảng.
|
Khi ấy, bản Dốc Mây sở hữu rất “nhiều không”. Không điện, đường, trường, trạm, chợ, không chi bộ và các tổ chức quần chúng cũng không có. Đêm đến, nhà nào biết nhà đó, ánh đèn dầu đỏ quạch làm đêm tối như dài thêm và có tác động đến hủ tục đẻ dày, đẻ nhiều ở đây. Phải bắt đầu từ đâu? Mấy đêm liền Trần Hữu Chung không ngủ, anh suy nghĩ: Muốn dạy chữ phải ổn định cuộc sống trước, dân no mới cho con đi học. Công việc đầu tiên là anh bàn với trưởng bản tổng vệ sinh. Suốt một tuần liền, anh cùng bà con dọn dẹp hết mọi đường đi lối lại và các ngõ ngách, sau đó huy động bà con chặt nứa rào quanh bản, làm chuồng bò, chuồng heo ở xa nhà, không cho chúng đi lại lung tung. Khi bản đã sáng sủa hơn, anh đề nghị với đồn, với xã củng cố các tổ chức quần chúng. Chi hội phụ nữ, nông dân, chi đoàn thanh niên dần dần được kiện toàn và đi vào hoạt động.
Với địa thế núi đá bao quanh, không có ruộng trồng lúa nước, đời sống của bà con chủ yếu dựa vào rừng, du canh, phát nương làm rẫy và săn bắn thú rừng, chẳng mấy khi được no bụng. Đại úy Chung bàn với trưởng bản thay đổi tập quán du canh, không đốt rừng làm nương rẫy, tập trung định canh và tăng cường trồng cây lương thực chống đói. Qua nhiều lần khảo sát, anh cùng già làng vận động bà con khai hoang dải đất ven suối để trồng ngô, trồng lạc, thâm canh lúa nương. Vừa hướng dẫn kỹ thuật, anh vừa trực tiếp “cầm tay chỉ việc” tận tình, bà con dần biết sản xuất, biết dự trữ lương thực chống đói. Mùa vụ đầu tiên lúa nương trĩu hạt, ngô giống mới cho năng suất cao, bà con phấn khởi lắm. Ai cũng nghe lời bộ đội Chung, phát triển trồng ngô cao sản, không vào rừng săn thú nữa.
Lúc rảnh việc, anh dắt lũ trẻ xuống suối tắm, cắt tóc cho chúng sạch sẽ, xem chúng như con mình. Những trường hợp ốm đau, anh mời y tá của đồn về khám và chăm sóc, chấm dứt việc nhờ thầy mo cúng con ma rừng. Lần nào về đồn công tác, anh đều liên hệ quân y xin thuốc lên cấp phát cho bà con phòng bệnh, hướng dẫn ăn chín uống sôi. Với đồng lương ít ỏi, nhưng anh thường xuyên mua đường, sữa thăm người già, mua kẹo cho các cháu nhỏ. Chỉ mới vài tháng “bốn cùng” và hướng dẫn, bà con nơi đây đã biết ăn ở hợp vệ sinh, ai cũng quý mến anh bộ đội. Ban ngày giúp dân, ban đêm chong đèn tranh thủ học tiếng Vân Kiều, anh đã nói tiếng của bà con thông thạo. Già bản nói với mọi người: “Bộ đội Chung là đứa con của bản Dốc Mây rồi”.
Người thầy của bản
Đã từng tham gia xóa mù chữ cho không ít bản làng, nhưng cam go nhất đối với Đại úy Chung là việc xóa mù ở bản Dốc Mây. Bà con nói: “Cái chữ không no bụng được, phải lên rừng mới có cái ăn”. Bởi vậy, muốn bà con cho trẻ đến lớp trước hết phải thông tư tưởng cho phụ huynh. Anh cùng phó bản Hồ Hải đêm ngày đội mưa nắng đi vận động từng nhà, trèo lên từng rẫy, vào cả rừng để thuyết phục. Vận động mãi rồi cũng có trẻ đến lớp, ban đầu là chục em, rồi có 25 em thập thò xin học. Anh lại cùng bà con đóng bàn ghế, bảng đen, về xã xin sách vở, giấy bút cho các em. Có em đến học trước, em học sau, thành ra lớp học ghép đủ các lứa tuổi và ngày càng đông, có những lúc anh dạy từ vỡ lòng đến lớp 4. Anh thương các em như con mình, vừa dạy chữ, vừa dạy các em làm người. Vốn khéo tay, nên nhiều lúc anh còn khâu vá những tấm áo của các em bị rách khi đùa nghịch.
Để đẩy nhanh tiến độ xóa mù chữ, ban ngày bộ đội Chung dạy chữ cho trẻ con, ban đêm dạy cho người lớn. Tiếng ê a đánh vần của người lớn và trẻ con vang lên trong bản nghe thật vui tai, ấm lòng. Vận động trẻ em đến lớp đã khó, thuyết phục người lớn đi học đông đủ càng khó hơn, bởi nhiều người vốn tự ti. Cực nhất là lớp học ban đêm, người lớn đi học, từ đàn ông đến phụ nữ đều hút điếu thuốc rê, điếu thuốc to tướng, khét lẹt. Ánh đèn dầu ma-dút mờ ảo nhìn không tỏ con chữ, khói đèn và khói thuốc quện vào đặc quánh, thầy giáo cay trào nước mắt mà vẫn tươi cười với học sinh. Nếu anh cấm hút thuốc trong lớp thì học sinh sẽ bỏ học, vậy là phải chịu khó nhường nhịn.
Một bận, lớp học thưa dần, có buổi chỉ lác đác dăm ba em. Thầy Chung vào bản tìm hiểu, có người bảo: “Từ bao đời nay người Vân Kiều không học chữ mà vẫn sống lâu, không sao cả!”. Cũng có người bảo: “Thu hoạch lúa nương và bẻ bắp xong vài ngày rồi cho con đến lớp học vẫn không muộn”. Một lần nữa, Đại úy Chung lại đến từng nhà vận động, đồng thời xắn tay giúp đỡ bà con. Anh tham gia gùi lúa, giã gạo, hái củi, bẻ bắp giúp các nhà neo người. Xong việc, khi học sinh đã đến lớp đông đủ, anh cùng trưởng bản vận động phụ huynh làm bản cam kết không cho học trò bỏ học, duy trì việc học có nền nếp. Để quản lý học sinh và động viên các em học giỏi, anh bàn với trưởng bản thành lập Chi hội khuyến học và thành lập Quỹ khuyến học. Anh ủng hộ cả tháng lương cho quỹ, vận động anh em trong đồn và bà con mỗi người một ít góp vào, thế là có quỹ để hoạt động, dành mua quà thưởng cho học sinh học khá, giỏi.
Sau hai năm đưa con chữ lên bản Dốc Mây, bà con Vân Kiều ở đây đã 100% hết mù chữ. Ai cũng biết nói tiếng Kinh, biết đọc báo và biết làm con toán đơn giản. Một số học sinh lớn lên đã biết vượt núi về trung tâm xã học tiếp trung học phổ thông ở trường nội trú. Số học sinh là người lớn về học tiếp bổ túc văn hóa và trở thành cán bộ cốt cán của thôn, có người làm trưởng bản, bí thư chi bộ... Dốc Mây từ chỗ là bản “trắng chữ”, “trắng chi bộ và các tổ chức quần chúng”, đến nay đã xóa hết mù, các tổ chức chính trị xã hội được kiện toàn đủ như các bản làng khác của xã Trường Sơn. Chi bộ Dốc Mây được củng cố và phát triển. Nếu tính cả 10 năm làm công tác vận động quần chúng và tham gia dạy chữ cho 6 bản khác trong xã, thì Đại úy Trần Hữu Chung đã mở được 15 lớp cho hơn 300 học sinh và trực tiếp giảng dạy 13 lớp. Từ già đến trẻ của bản Dốc Mây và cả xã Trường Sơn ai cũng trìu mến gọi anh là “Thầy giáo Chung”.
Bà con quý anh không những mang con chữ đến cho mọi nhà, mà còn tận tình hướng dẫn từ việc trồng cây ngô, cây lúa nương đến cách phòng chữa một số bệnh như sốt rét, đau bụng, rắn cắn... Rồi bản Dốc Mây đã được đầu tư làm được thủy điện nhỏ. Ánh sáng của Đảng đã thay thế ngọn đèn dầu hiu hắt, cùng với ánh sáng văn hóa do bộ đội Chung mang đến, làm cho bản làng sáng sủa hơn rất nhiều.
Lên rừng, xuống biển
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở bản xa nhất, khó khăn nhất của xã Trường Sơn, Đại úy Trần Hữu Chung được phong quân hàm thiếu tá và được Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình tặng bằng khen về thành tích phổ cập giáo dục. Nhưng do hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, nên đơn vị đã tạo điều kiện cho anh trở về đồn công tác. Lúc anh đang ngày đêm giúp bà con ở bản Dốc Mây thì vợ anh ốm nặng, đã qua đời lúc còn rất trẻ vì bệnh ung thư máu. Vì đời sống của bà con, anh ít có điều kiện để chăm sóc vợ lúc ốm đau. Rồi đứa con trai của anh cũng bị ốm lâu ngày, đơn vị cho anh đón cả hai cháu lên đồn để anh có điều kiện chăm sóc. Hôm anh khoác ba lô rời bản Dốc Mây, bà con ai cũng quyến luyến, nhiều người không kìm được nước mắt. Lũ trẻ rồng rắn chạy theo níu ba lô như không muốn cho anh về xuôi. Phó bản Hồ Hải giọng đượm buồn: “Thầy Chung về rồi lại lên, các cháu để thầy về kẻo trời tối!” Hơn chục đứa trẻ, những học trò ngoan đã theo tiễn anh đến tận dốc núi cao mới chịu về, đứa nào cũng khóc.
Về Đồn Biên phòng 597 được một thời gian, Thiếu tá Trần Hữu Chung lại lên đường nhận nhiệm vụ mới ở Đồn Biên phòng 200 (Ngư Thủy). Đây là vùng bãi ngang, giáp biển, nhưng đời sống của bà con còn gặp nhiều khó khăn, rất cần anh và đồng đội chia sẻ, giúp đỡ. Trần Hữu Chung thường xuyên cùng đồng đội ngày đêm tuần tra, sẵn sàng bảo vệ biển, đảo. Hôm chúng tôi vào đồn, anh lại cùng anh em xuống cơ sở để tuyên truyền về tình hình Biển Đông và phương cách xử lý của Đảng và Nhà nước ta cho bà con rõ. Các anh luôn động viên bà con ngư dân yên tâm bám biển đánh bắt hải sản, đồng thời tích cực tham gia cùng các lực lượng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Dù lên rừng hay xuống biển, Thiếu tá Trần Hữu Chung đều được dân tin, dân mến, bởi anh luôn hết lòng vì cuộc sống của bà con.
XUÂN VUI