QĐND - Khu Đồi Mít, xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh một ngày hè, trước màu xanh mỡ màng của vườn na sắp tới kỳ thu hoạch, một vị tướng già đang trầm ngâm đứng ngắm nhìn thành quả lao động của mình và tính toán kết quả của vụ na năm nay. Ông là Anh hùng LLVT nhân dân, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp, nguyên Giám đốc Công an tỉnh Lai Châu, nguyên Cục trưởng A16 (Bộ Công an), Trưởng đoàn chuyên gia công an Việt Nam tại Lào...

Từ đồng bằng lên núi cao

Dưới tán na xanh tốt, vị tướng già 86 tuổi với mái tóc trắng như cước, gương mặt phúc hậu toát lên vẻ minh mẫn, hào sảng kể lại câu chuyện cuộc đời mình. Đó là trang sử dài, hào hùng về cuộc đời người chiến sĩ công an gắn bó, cống hiến, chiến đấu hết mình vì mảnh đất Tây Bắc hùng vĩ. Trải qua bao thăng trầm, cam go, đối đầu với các loại kẻ thù Pháp, Mỹ và phản động, ông và đồng đội kiên cường, mưu trí, chế ngự, trấn áp chúng, góp sức cho Tây Bắc bình yên. Người công an ấy đã có 65 năm tuổi Đảng, 45 năm trong ngành công an, 37 năm gửi mình cho miền biên viễn. Trong đó có 10 năm liên tục trực tiếp chỉ đạo, đấu tranh chống gián điệp biệt kích các thời kỳ từ 1961 đến 1971, cùng đồng đội phá 13 chuyên án phản động, xưng vua, nổi phỉ, bạo loạn, lập đảng phái, âm mưu lật đổ chính quyền, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch...
 

Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Trọng Tháp và niềm vui tuổi già.         

Vị tướng già trầm tư hồi tưởng: “Tôi sinh năm 1928 trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Vũ Xá, xã Thất Hùng, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Dòng họ Nguyễn Trọng bao đời sinh cơ bên dòng sông Kinh Thầy hiền hòa đã hun đúc cho tôi tinh thần vượt khó, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm theo con đường cách mạng. Năm 13 tuổi, tôi đã phải đi làm thuê kiếm sống, rồi sau đó lên TP Hải Phòng ở nhờ nhà một người bác để tự học. Năm 1945, tôi tham gia cách mạng, làm liên lạc viên cho Đội tự vệ Trưng Trắc - Hải Phòng. Trải qua một số vị trí công tác, đến tháng 11-1948, tôi vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Dừng câu chuyện trong chốc lát, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp bỗng xúc động kể: “Cuộc đời tôi nặng duyên nợ với vùng Tây Bắc, năm 1951 thực sự là bước ngoặt lớn trong cuộc đời khi tôi chính thức nhận nhiệm vụ lên công tác tại Khu ủy Tây Bắc (năm 1955 đổi thành Khu tự trị Thái-Mèo), vào vùng địch hậu ở tỉnh Lai Châu. Bắt đầu từ đây, tôi trở thành người con của núi rừng Tây Bắc và suốt thời gian mấy chục năm công tác về sau, tôi sống và chiến đấu trên mảnh đất này”. Năm 1952, chàng thanh niên trẻ Nguyễn Trọng Tháp 24 tuổi đã là Ủy viên Ban cán sự huyện Tuần Giáo (tỉnh Lai Châu). Tây Bắc ngày ấy hoang sơ, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn gian khổ, nhất là trong lúc cả nước đang dồn sức chống thực dân Pháp. Một trong những trở ngại lớn nhất của cán bộ miền xuôi lên công tác như Nguyễn Trọng Tháp khi đó chính là bất đồng ngôn ngữ. Đồng bào dân tộc thiểu số Lai Châu vào thời điểm thập niên 1960 hầu như không biết tiếng phổ thông chứ chưa nói đến chữ viết. Chính vì vậy công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức sản xuất, xây dựng chính quyền, LLVT để chống giặc là điều không hề đơn giản. Ngay từ những ngày đầu lên đây, Nguyễn Trọng Tháp đã xác định rõ phải học bằng được tiếng của đồng bào thì mới có thể sống và làm việc được. Anh thanh niên đất Hải Dương đã chủ động hòa mình vào với nhân dân các dân tộc Mông, Dao, Thái… của đất Tuần Giáo để cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng của bà con. Khi đó, kẻ địch thường xuyên tuyên truyền xuyên tạc chia rẽ người Kinh với dân tộc thiểu số, vì vậy tiếp xúc với đồng bào, Nguyễn Trọng Tháp rất thận trọng và quyết tâm dùng hành động của mình để làm cho họ hiểu được chủ trương, chính sách của Đảng và tấm lòng của người cán bộ Việt Minh. Từ sự gắn bó ấy, đồng bào đã rất tin tưởng vào ông, cung cấp cho ông và tổ chức nhiều tin tức có giá trị, giúp phá được nhiều vụ án trên địa bàn. Chính từ sự năng nổ, nhiệt tình và thông thạo đó mà Thống lý Vừ Cu Dơ, Phó chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Tuần Giáo đã từng ngỏ ý rằng rất yêu quý và muốn gả con gái cho cán bộ Tháp. Từ năm 1953 đến 1957, Nguyễn Trọng Tháp đi học tại Trường Công an Trung ương (nay là Học viện An ninh nhân dân) rồi lần lượt được giao các nhiệm vụ: Cán sự ủy viên huyện, Chính trị viên huyện đội, Chính trị viên Đại đội 810, Trưởng công an huyện Tuần Giáo… Trong thời gian này, ông đã tự học tiếng Mông, tiếng Thái, tiếng Dao,... giao tiếp thành thạo với bà con dân tộc, tìm hiểu và hòa nhập vào phong tục, tập quán của đồng bào để vận động quần chúng, xây dựng và củng cố các cơ sở cách mạng.

Năm 1958, Nguyễn Trọng Tháp được điều về làm Trợ lý Ban Chính trị dân quân, Quân khu Tây Bắc, rồi từ đó đến năm 1962, ông làm Tổ trưởng tổ trinh sát, Phó phòng Bảo vệ Chính trị, Sở Công an Tây Bắc. Từ năm 1963 đến 1979, Nguyễn Trọng Tháp được bổ nhiệm nhiều chức vụ thuộc Công an Lai Châu và cơ quan Đảng của Lai Châu. Thời kỳ này, một cuộc chiến mới đầy cam go, khốc liệt mở ra với cán bộ công an Nguyễn Trọng Tháp.

Một thập kỷ chống gián điệp, biệt kích

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp nhớ lại: “Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bắt đầu công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh đấu tranh thống nhất đất nước. Sơn La và Lai Châu là địa bàn hoạt động trọng điểm về xâm nhập biệt kích, gián điệp của Mỹ-ngụy. Giai đoạn 1961-1971, Mỹ-ngụy đã tung nhiều toán gián điệp, biệt kích với hàng trăm tên cùng nhiều vũ khí, khí tài, điện đài, chất nổ... xuống vùng Sơn La và Lai Châu. Thời điểm đó, được sự chỉ đạo của Trung ương, Bộ Công an, chúng ta đã tổ chức lập kế hoạch “trò chơi nghiệp vụ” nhằm câu nhử và bắt giữ tất cả các toán gián điệp, biệt kích do địch thả xuống các tỉnh biên giới phía Bắc. Trong thời gian đó, tôi trực tiếp tham gia hai chuyên án với bí số PY27 và LH17”.

Tháng 6-1961, chuyên án PY27 được triển khai, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo: “Phải lập chuyên án đấu tranh nhằm đi sâu, tìm hiểu âm mưu địch từ cơ quan đầu não của chúng, nắm cho được số biệt kích chúng đang huấn luyện, dụ chúng đưa hết số đã huấn luyện ra Bắc để bắt”. Được giao phụ trách trực tiếp chuyên án, Nguyễn Trọng Tháp xác định, đây là nhiệm vụ rất nặng nề, mới mẻ, chưa có kinh nghiệm, phải có tính kỷ luật cao, chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo của Bộ Công an, của Công an khu, hướng dẫn của Cục Bảo vệ chính trị (nay là Tổng cục An ninh), không được để sai sót dù nhỏ. Tìm hiểu nhóm biệt kích mật danh Caster nhảy dù xuống bản Na Hỳ, xã Phiêng Ban, Phù Yên (Sơn La) bị bắt ngày 27-5-1961, Nguyễn Trọng Tháp đã đi sâu nghiên cứu âm mưu, phương thức, thủ đoạn, hoạt động của địch. Đặc biệt, ông tập trung khai thác tên toán trưởng, tên truyền tin các vấn đề nghiệp vụ, mật mã, mật khẩu an ninh… Sau 2 năm kiên trì đấu tranh, chuyên án đã bắt gọn 7 tên biệt kích tăng cường cho nhóm Caster, thu giữ 6 kiện hàng và Nguyễn Trọng Tháp được trao tặng Huân chương Chiến sĩ hạng ba.

Năm 1963, Nguyễn Trọng Tháp được đồng chí Trần Triệu, Giám đốc Công an Khu Tây Bắc điều động lên làm Phó trưởng ty Công an Lai Châu, phụ trách công tác an ninh chính trị. Thời điểm này ông được giao tiếp nhiệm vụ chỉ đạo chuyên án đấu tranh với toán gián điệp biệt kích Remus với bí số LH17. Chuyên án này gian khổ, kéo dài tới 6 năm, đến tận tháng 4-1968 mới kết thúc, ta bắt 21 tên, thu 128 kiện hàng, trong đó có 17 bộ điện đài, 60 máy truyền tin bán dẫn, 1 tấn thuốc nổ TNT, đặc biệt thu 9 quả tên lửa chiến thuật và nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại khác… Qua hơn 10 năm tham gia đấu tranh chống gián điệp biệt kích, Nguyễn Trọng Tháp cùng đồng đội khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sát cánh cùng cán bộ, chiến sĩ Công an vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), để hoàn thành nhiệm vụ...

 

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thừa ủy quyền Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp (ngoài cùng, bên phải) cùng các cựu cán bộ Tổng cục An ninh (Bộ Công an) năm 2009.

...Nhờ những nỗ lực ấy mà tất cả các đợt tăng cường của địch vào địa bàn Tây Bắc đều bị đón lõng mà trung tâm chỉ huy của chúng không thể nào biết được. Cho đến sau này, cựu điệp viên CIA Tua-xơn (Tourison) làm việc tại chi nhánh Sài Gòn thời đó thú nhận trong cuốn sách “Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật” rằng: "Hà Nội còn trên tài cả CIA vì họ đã biết trước kế hoạch của CIA". Thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống bọn biệt kích gián điệp của Công an Lai Châu, Sơn La và một số địa phương khác đã góp phần quan trọng đập tan âm mưu thâm độc của kẻ thù phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chỗ dựa vững chắc của tiền tuyến lớn miền Nam.

Đối đầu thù trong giặc ngoài

Nhấp chén trà nóng, vị tướng già tiếp tục câu chuyện: “Trong gần 40 năm làm việc ở Tây Bắc, tôi tham gia hàng loạt các chuyên án đấu tranh, chống bọn phản cách mạng qua các thời kỳ nhạy cảm. Những năm chống Pháp, Mỹ, bọn phản động nước ngoài thường xuyên xâm nhập biên giới phía Bắc, cùng với lực lượng thù địch ở địa phương tạo thời cơ nhằm trả thù cách mạng. Chúng nhao nhao như “vắt thấy hơi người”, tụ tập chống phá, lập đảng phái, tổ chức bạo loạn, xưng vua, nổi phỉ ở khắp địa bàn Tây Bắc”. Vụ đầu tiên phải kể đến là cuộc bạo loạn ở xã Hồ Thầu, Phong Thổ, Lai Châu năm 1959. Vụ này, bọn địa chủ, đặc vụ Trung Quốc bị cách mạng nước bạn truy đuổi, chạy trốn sang phía Việt Nam. Lợi dụng tình cảm cùng dân tộc, chúng câu kết với phản động địa phương, lôi kéo cán bộ, chính quyền, mê hoặc quần chúng, kích động ly khai, lập chính phủ riêng… Bọn chúng manh động đến nỗi đã bắn chết cả Phó chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Tây Bắc, làm tan rã cơ sở cách mạng ở xã Hồ Thầu… Qua 9 tháng điều tra, đấu tranh, Nguyễn Trọng Tháp cùng đồng đội đã làm rõ âm mưu, ý đồ của chúng, nắm được những tên cầm đầu. Đồng thời bao vây, kêu gọi bọn đầu sỏ ra hàng, bọn dưới quyền thấy thế liền tự giác giao nộp súng đạn. Ngay sau đó, lực lượng công an đã tổ chức ổn định tình hình an ninh, chính trị địa phương, động viên tư tưởng quần chúng kết hợp xây dựng cơ sở và đặc tình tin cậy để tiếp tục theo dõi địch. Tướng Tháp nhấn mạnh: “Bài học rút ra từ chuyên án đầu tiên đó chính là việc không chỉ đơn thuần tiến hành công tác nghiệp vụ mà còn phải đi sâu đi sát, chịu đựng gian khổ để giáo dục quần chúng, dựa vào quần chúng thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Sau này tôi cùng đồng đội đã phá nhiều vụ án khác như: Vụ phản động ở bản Chiềng Chung, xã Quài Cang, huyện Tuần Giáo âm mưu lật đổ chính quyền tháng 11-1965; vụ phản động ở xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên tháng 3-1966; vụ âm mưu lũng đoạn, tha hóa tổ chức Đảng, phá hoại chính sách của ta ở Mường Báng, Tuần Giáo năm 1967; vụ xưng "vua" ở xã Xá Nhè, Tuần Giáo năm 1968; vụ lập đảng phái phản động lật đổ chính quyền ở xã Thanh Luông, huyện Điện Biên năm 1978; vụ bạo loạn ở Huổi Luông, Sìn Hồ năm 1978; vụ “đảng Thái An” âm mưu tiếp tay cho quân xâm lược, nổi dậy cướp chính quyền ở xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên năm 1979; vụ lôi kéo đồng bào Mông theo địch, lập đội vũ trang quấy phá biên giới ở xã Pa Tần, Sìn Hồ năm 1981…”. Trong những năm tháng ấy, thù trong, giặc ngoài, bọn chúng dùng trăm phương, nghìn kế để móc nối, lôi kéo tìm cách chui vào đội ngũ của ta, nắm nhân dân các dân tộc của ta ở vùng biên giới để phục vụ âm mưu xâm lược, lật đổ chính quyền cách mạng. Nhưng có thể khẳng định, âm mưu của địch đã thất bại hoàn toàn, trên toàn tuyến biên giới của tỉnh Lai Châu, đồng bào tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, Bác Hồ, làm cho các thủ đoạn mị dân của địch luôn bị vô hiệu hóa. Đây là một thắng lợi không những về mặt quân sự mà còn là một thắng lợi chính trị sâu sắc ở vùng cao Tây Bắc.

Vị tướng già bỗng nheo mắt, trầm ngâm: “Cuộc đời tôi 37 năm công tác ở biên giới, từng giữ cương vị Phó trưởng ty, Giám đốc Công an Lai Châu trong nhiều năm, tôi đều được giao phụ trách vấn đề an ninh chính trị. Nhờ có sự chỉ đạo của Bộ, Công an Khu Tây Bắc, cấp ủy, chính quyền địa phương, đặc biệt là sự tin tưởng, giác ngộ, ủng hộ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Nhờ có nhân dân giúp đỡ, che chở trong suốt những năm đấu tranh gian khổ, ác liệt nên chúng tôi mới hoàn thành nhiệm vụ. Cũng trong thời gian ấy, tôi đã góp phần xây dựng và đào tạo được một đội ngũ cán bộ chiến sĩ công an người dân tộc Thái, Mông, Hà Nhì... có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức để đảm nhận các nhiệm vụ được giao. Đây thực sự là lực lượng quan trọng trong việc đấu tranh, giữ vững an ninh, chính trị ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới”.

Giám đốc Công an tỉnh Lai Châu Nguyễn Trọng Tháp (ngoài cùng bên trái) họp bàn tìm biện pháp hóa giải một chuyên án. (Ảnh do nhân vật cung cấp).

Từ năm 1980-1988, Đại tá Nguyễn Trọng Tháp giữ cương vị Giám đốc Công an tỉnh Lai Châu, từ 1988-1992 ông làm Cục trưởng Cục Chống phản động Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), năm 1990 ông nhận quân hàm Thiếu tướng An ninh. Từ năm 1992 - 1995, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp làm Trưởng đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam tại Bộ Nội vụ Lào, đến năm 1996 ông về nghỉ hưu và chính thức bước vào một mặt trận mới, làm kinh tế.

 “Tướng về vườn”

Năm 1996, sau khi nhận quyết định nghỉ hưu, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp cùng vợ xách cuốc xẻng đến vùng đồi đất khô cằn xã An Sinh, huyện Đông Triều, Quảng Ninh để vỡ đất, làm nương, trồng vải, na, bưởi, nuôi bò, lợn, gà, nhím... để 18 năm sau, ông trở thành một trong những điển hình kinh tế trang trại nổi tiếng trong vùng, là tấm gương cả về đạo đức cũng như tinh thần hăng say làm việc, phát triển kinh tế... Ngồi nhìn vườn na trĩu quả sắp tới vụ thu hoạch, vị “tướng về vườn” nhớ lại: “Gần 20 năm trước, khi vợ chồng tôi khăn gói về đây dựng nhà, làm vườn, cả vùng đất này chỉ là cỏ lau với bạch đàn, hầu như chưa có người ở. Khi đó đường giao thông chưa có, điện nước đều tự túc, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn đủ đường. Gần 70 tuổi đời, chúng tôi lại bắt đầu làm lại cuộc sống”.    

Những ngày đầu ấy, vợ chồng ông đã chọn mua được 2 héc-ta ở khu đồi Mít với giá 15 triệu đồng/héc-ta, toàn bộ khu vực vườn đồi bấy giờ chỉ là đồng không, mông quạnh, ông và gia đình phải đến ở nhờ cách đó 5km. Cứ như vậy, sáng sớm, hai vợ chồng già và người con út ăn sáng, nắm cơm ra khu đồi vừa làm, vừa thuê người đào hết toàn bộ gốc bạch đàn, thuê máy cày đất, lên luống… Tiếp đó, ông và các con thồ hom sắn từ chỗ người em về để trồng. Để bớt thời gian đi lại, ông thuê người đóng gạch xỉ xây căn nhà 2 gian ở dưới chân đồi cho tiện chăm non vườn tược… Đất chẳng phụ công người, không bao lâu sau, khu đồi Mít cằn khô trước đây được thay thế bằng màu xanh của sắn, vải thiều, na, bưởi Diễn… Từ thành công bước đầu đó, ông tiếp tục dành thời gian nghiên cứu, đọc sách kỹ thuật, xem các chương trình truyền hình, học hỏi các kỹ sư nông nghiệp… để tìm ra cách chăm sóc cây cho kết quả tốt nhất. Khi trồng cây có thu hoạch cao, ông không giấu nghề mà phổ biến kinh nghiệm cho bà con cả vùng. Năm 2002, ông cùng hơn 70 hộ làm vườn trong xã thành lập Hội người làm vườn “An Dân Việt”, người dân tín nhiệm bầu “tướng về vườn” Nguyễn Trọng Tháp làm Hội trưởng Hội làm vườn. Năm 2009, bằng số tiền gom góp từ làm kinh tế trang trại, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp đã thực hiện thành công ước mơ làm một con đường bê tông ở quê hương Thất Hùng, Kinh Môn, Hải Dương cho các em học sinh đi học thay cho con đường đất gồ ghề trước kia.

Bây giờ ai có đến An Sinh, hỏi thăm từ đầu xã người dân đã chỉ tận tình nhà tướng Tháp, ngôi nhà 2 tầng khang trang nằm nép mình bên vườn na, bưởi gần 4 héc-ta. Tướng Tháp khẽ nói: “Năm ngoái nhà tôi thu hoạch hơn 600 triệu đồng tiền na, 200 triệu đồng tiền bưởi Diễn, dự kiến năm nay sẽ thu khoảng 35 tấn na nữa. Tôi chỉ buồn là ngày hôm nay bà nhà tôi không còn nữa để chia sẻ thành quả lao động với tôi. Suốt bao nhiêu năm tôi đi làm cách mạng, đằng sau quân hàm cấp tướng là bóng dáng người vợ hiền tần tảo, chịu thương chịu khó hết mực hy sinh vì chồng con. Mọi điều tôi làm được trong cuộc đời đều mang dấu ấn sẻ chia của bà ấy”.

86 tuổi đời, 65 năm tuổi Đảng, 37 năm công tác ở Tây Bắc, từng giữ nhiều trọng trách nhưng ở cương vị nào Anh hùng LLVT nhân dân, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp cũng đều hoàn thành xuất sắc. Khi trò chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp, tôi thấy mình học được nhiều điều, chính vì thế tôi mạnh dạn viết bài báo này hy vọng các bạn trẻ khi đọc nó sẽ tìm được những điều mình cần từ tấm gương sáng ngời đạo đức cách mạng này chăng?

Ghi chép của HOÀNG TRƯỜNG GIANG