(Tiếp theo và hết)
Chiến sĩ vệ binh đang thực thi nhiệm vụ, yêu cầu được xem giấy tờ. Người già nhất trong số họ nói với đồng chí vệ binh, "chúng tao không có giấy tờ, chúng tao chỉ có người, có xe, có cá thôi". Đồng chí vệ binh là chiến sĩ mới mới nhập ngũ, nghe mấy người nói ngangngang như vậy, lại càng cương quyết giữ nguyên tắc. Cũng may lúc ấy đồng chí Vinh, trợ lý dân vận đi qua mọi việc mới vỡ ra. Thì ra cuối năm dân làng bắt lứa cá đầu tiên, bà con cử mấy người mang cá xuống tặng đơn vị. Anh Giảng nắm tay từng người:
- Bà con mình giờ ăn mặc đẹp quá, lại đi cả hon-đa nữa bộ đội vệ binh không nhận ra, đừng giận nó nghe.
Già làng cười xòa lý luận:
- Không giận bộ đội đâu, dân mình cũng như bộ đội thôi, bộ đội lên giúp dân có cần cái giấy đâu, mình mang con cá xuống cho bộ đội thì mang giấy làm chi! Mua được xe, sắm được quần áo đẹp là nhờ định canh, định cư làm lúa nước, nuôi bò, nuôi cá bán được nhiều tiền.
Mấy người đi cùng còn khoe: "Trong làng bây giờ nhà nào cũng có xe máy, lũ thanh niên bây giờ nhiều đứa đi làm ở khu công nghiệp Hòa Khánh, thành công nhân, biết nhiều thứ lắm".
Mới rồi tôi cùng mấy nhà văn trẻ theo các anh ở Sư đoàn lên thăm bà con hai thôn Tà Lang, Dàn Bí. Dừng chân bên chiếc bể nước công cộng, nước được dẫn từ nguồn ở dãy Bạch Mã về bằng hệ thống tự chảy, nghe nói đây là công trình do bộ đội B75 thiết kế, xây dựng tặng đồng bào. Nước như được chắt ra từ núi, từ rừng vừa mát, vừa trong. Bọn trẻ con lít nhít như bầu, như bí xối nước thỏa thích, các bà các chị, lưng địu con, địu cháu, người xách nước, người rửa rau, người giặt giũ... Khung cảnh như một bức tranh quê no đủ và an bình. Những người viết văn trẻ có những phát hiện khá lý thú, ấy là, phụ nữ ở đây tỷ lệ mang bầu khá nhiều, là hàng quán cũng la liệt chẳng kém gì dưới xuôi, là nhà nào cũng đông con, đông cháu. Chính gia đình A Thơi, con út (mà chưa chắc đã phải là út), kém tuổi cháu nội đến ba mùa rẫy. Hỏi tại sao không kế hoạch hóa gia đình, sáu mươi tuổi rồi vẫn còn phải nuôi con dại, vẫn là A Thơi:
- Mình cũng kế hoạch đấy chứ, cũng không muốn đẻ nữa đâu, nhưng mà vợ nó cứ mang bầu là phải đẻ thôi.
Mọi người cười xòa trước sự lý giải rất vô tư của người đàn ông này. Phải nói rằng, dân làng ở đây, từ người già đến con trẻ thấy bộ đội về là chạy ùa ra tay bắt mặt mừng, có chuyện gì không giải quyết được, họ hẹn nhau chờ bộ đội lên làm trọng tài phân xử. Nhớ lại ngày điện lực Đà Nẵng kéo điện về làng, bà con túa ra xem, thấy ánh điện sáng lòa nhiều người chạy vào buồng nấp, điện trong buồng bật sáng, lũ con gái kéo váy che mặt cùng nhau chạy ra bìa rừng. Có điện, bộ đội mang cái ti-vi về chiếu cho dân làng xem, nhiều người ù chạy khi thấy đoàn xe lừng lững như lao về phía mình, nhiều người tay bịt chặt tai, mắt nhắm nghiền khi thấy máy bay bổ nhào bay lượn. Ngày ấy ngành điện kéo điện cho dân xong, bật điện sáng cho từng nhà, nhưng quên không hướng dẫn cho dân cách tắt, điện cứ sáng suốt ngày đêm, thế là dân viết đơn kiện, vì điện mà bản mình không có đêm, không có đêm thì cứ phải thức miết, mà đã thức là cánh đàn ông suốt ngày say xỉn bên chóe rượu, lũ con gái cái tay cũng lười, cái chân cũng nhác chẳng chịu dệt thổ cẩm, bọn trẻ con không còn sức mà nô đùa nhảy nhót...
Những chuyện như vậy xảy ra cách đây chưa lâu, thế mà bây giờ trở lại Hòa Bắc, mọi thứ đều đổi thay khá nhiều, dường như nếp sống đô thị với tất cả những gì, từ những điều tốt đẹp, đến mặt trái của cuộc sống bụi bặm phố phường đã ập đến với xứ sở này rất nhanh.
Về Hòa Bắc hôm nay họa hoằn lắm mới thấy một khung dệt thổ cẩm và người ngồi dệt cũng đã thay đổi không còn là những cô gái nhí nhảnh nữa, thay vào đó là những mế già, mà lẽ ra đã đến tuổi nghỉ ngơi, có chăng ngồi bên khung dệt là để chỉ vẽ cho những cô gái trẻ mà thôi. Đêm ở Hòa Bắc cũng không còn tĩnh lặng như xưa, vắng những lời kể khan của người già, thay vào đó là những quán ka-ra-ô-kê, với những chiếc loa thùng công suất lớn, phòng hát lại thiếu thiết bị cách âm, nên âm thanh dội ra cứ chát chúa. Thi thoảng trên đường lại có tiếng rú của động cơ hon-đa, hỏi ra được biết lũ thanh niên uống rượu rồi hè nhau rồ máy xe. Mấy năm gần đây trước sự phát triển của các khu công nghiệp, thanh niên Hòa Bắc không ít người trở thành công nhân của các nhà máy. Thu nhập hằng tháng triệu hơn, triệu kém lại không phải thuê phòng trọ, không phải tốn kém do chi phí ăn uống như số anh em công nhân ở xa, chính vì vậy mà đời sống nhiều gia đình khá lên.
Hội nhập, tiếp xúc với nhịp sống công nghiệp làm ra tiền, nhưng những pha tạp của phố phường cũng theo chân những chàng trai hiếu động về với núi rừng, đã thấy trong đám trai làng có những mái đầu nhuộm vàng, xịt gôm, đã thấy sự bắt chước trong cách ăn mặc, ngay cách nói năng xưng hô cũng bị lai tạp... Điều nguy hại hơn là đã thấy sự xuất hiện của những tệ nạn xâm nhập vào lớp trẻ, rồi cách tiêu xài phung phí, nếp sống hưởng thụ và ỷ lại cũng đã xuất hiện trong một vài gia đình... Một vùng rừng núi còn nguyên vẻ hoang sơ, còn nguyên sự thuần khiết đã thấy dấu hiệu của sự lai tạp hỗn độn, xô bồ len lỏi vào đời sống cư dân núi rừng.
Tôi thơ thẩn mang theo nỗi niềm tâm sự day dứt, bước chân như vô định ra bến sông, thấp thoáng dưới kia những dãy nhà sàn, mái tôn giả ngói vút lên theo mô típ nhà rông của đồng bào ẩn hiện trong sương. Được biết, đây là khu du lịch Sinh thái-văn hóa do bà Tôn Nữ Thanh Toàn, Giám đốc Công ty Cattie Asia đầu tư xây dựng. Nghe đâu Dự án này có tới bốn cụm chính, sẽ có những dãy nhà cổ nằm rải rác ven suối, có những cái tên như Cồng thiêng, Vườn thượng uyển, mới nghe thôi đã thấy vừa huyền bí linh thiêng, vừa cao sang vời vợi. Cũng lại nghe nói bà Toàn là một doanh nhân, nhưng có tâm hồn nghệ sĩ, bà đã có thơ đăng báo, có thơ phổ nhạc, thơ của bà được nhạc sĩ tài hoa Phan Huỳnh Điểu phổ đến mấy bài. Có lẽ con mắt nhà kinh doanh có tâm hồn nghệ sĩ, nên bà có ý định triển khai cả những khu triển lãm những vật dụng và trang phục của người dân bản xứ để phục vụ du khách.
Lại nghe nói bà còn có ý định dựng lên đây một trại mộc để tận dụng những những gốc cây tạc tượng nhà mồ, tạc tượng mô tả cảnh sinh hoạt, lễ hội của người dân bản địa. Công ty của bà còn liên kết cùng với chính quyền địa phương khôi phục và phát triển những vườn cây ăn trái bốn mùa, vừa để phục vụ du khách và tăng thêm nguồn thu cho người dân địa phương. Và tham vọng hơn cả, bà có ý định tổ chức tour du lịch vươn dài đưa du khách vượt qua đỉnh Bạch Mã bằng xe ngựa, hoặc bằng các phương tiện thủ công gợi lại một thời cha ông đi mở cõi, để đi thăm thú thị trấn Khe Tre của huyện Nam Đông bên tỉnh bạn, rồi sang cả Hạ Lào... Một viễn cảnh về Hòa Bắc đã hiện ra trong tầm mắt. Hòa Bắc giờ không còn xa xôi, không còn là chốn khỉ ho cò gáy, thành phố đang vươn dài đến tận núi rừng. Bất chợt tôi có một liên tưởng thú vị, Bạch Mã như con ngựa trắng khổng lồ đang tung vó đưa những ý tưởng, ước mơ của người bản xứ bay lên ngang trời.
Cầu cho ước mơ sớm thành sự thật, cầu cho dự án du lịch sinh thái của bà Tôn Nữ Thanh Toàn sớm thành hiện thực. Và tôi không quên cầu cho sự trong lành vẫn nguyên vẹn với Hòa Bắc. Dù có làm du lịch, dù có làm công nghiệp, hoặc làm bất cứ việc gì đi nữa, cũng đừng phá vỡ cảnh quan môi trường, đừng để luồng gió độc mang mầm mống bệnh hoạn, mang rác rưởi tanh hôi làm ô nhiễm môi trường Hòa Bắc.
ĐẶNG TRUNG HỘI