Có thể coi việc đi ô tô từ thành phố đến những thôn bản xa nhất của xã Hòa Bắc, là sự chung tay góp sức giữa các cơ quan, ban ngành và chính quyền thành phố với các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn. Nói một cách hình ảnh, đây là sản phẩm của tình quân dân cá nước. Để có được con đường trải nhựa phẳng phiu đến sát được với dãy Bạch Mã như con ngựa trắng ẩn hiện giữa trời, là việc đưa đồng bào Cơ-tu sống du canh, du cư ở các ngóc ngách trong các cánh rừng thuộc dãy núi này về sống thành làng, thành bản.
Việc đưa dân về sống định cư, nói không quá lời, công đầu thuộc về bộ đội. Tôi đã được chứng kiến những ngày bộ đội về bản, trong màu xanh của núi rừng có thêm màu xanh quân phục. Bộ đội về xã khá đông, nhiều đơn vị, nhưng nhiều hơn cả vẫn là cán bộ, chiến sĩ Đoàn Phòng không B75. Chuyện vỡ đất khai hoang lập làng, không phải làm trong một năm, một đợt hành quân dã ngoại mà có được. Những người lính đi làm dân vận, phải kiêm thêm việc khảo sát địa hình, khảo sát thổ nhưỡng, quy hoạch cụm dân cư. Chỉ riêng việc quy hoạch thôi cũng phải tính toán sao cho nơi ở mới phải phù hợp với phong tục của đồng bào...
- Chẳng phải cứ có đất, có tiền rồi xây nhà cấp cho đồng bào, mời đồng bào về ở là được ngay đâu (!).
Đại tá Phan Thanh Giảng, thời còn làm Chính ủy Đoàn B75 nói với chúng tôi như vậy. Theo anh, chỉ riêng việc chọn đất thôi, sao cho phù hợp với phong tục của đồng bào, có nghĩa là nơi ở không xa rừng quá và cũng không được xa suối quá. Còn xây nhà, không thể xây theo kiểu của đồng bào Kinh được, kiến trúc và bài trí phải có sắc thái riêng. Không phải cứ bê-tông, kiên cố là đồng bào đã ưng cái bụng.
Bộ đội đi làm dân vận hết vùng này tới vùng khác. Mấy năm trước, khi vùng đồng bào công giáo xã Hòa Sơn đời sống còn khó khăn, các lực lượng tập trung về đây giải quyết rốt ráo về giao thông, về thủy lợi, nước sinh hoạt cho nhân dân. Còn nhớ, giữa năm 1999, khi ấy xã Hòa Sơn như là địa điểm diễn tập của các quân, binh chủng thu hẹp. Bộ đội Hải quân từ dưới biển lên, bộ đội Phòng không-Không quân từ trên đồi xuống, cánh lính bộ binh, xe tăng kéo từ thành phố, từ những vùng quê về... Các xóm nhỏ trong xã đầy ắp bộ đội, nhà dân không còn chỗ, bộ đội dựng nhà bạt ven đồi, ngày đào giếng, đắp đường, đêm lời ca tiếng hát giao lưu với thanh niên địa phương. Hòa Sơn ngày ấy như có hội. Hôm khánh thành giếng nước giữa làng, người già con trẻ tập trung xung quanh cái giếng xây có đường kính gần ba mét, như để xem một kỳ tích. Và đúng là kỳ tích thật, thượng tá Nguyễn Hùng Cường, Phó chủ nhiệm chính trị Đoàn B75, người chỉ huy đội quân đào giếng này, kể:
- Đào giếng mà phải dùng cả máy khoan, như khoan thăm dò địa chất. Lính ta đánh trần, phân ca thay phiên nhau, mướt mồ hôi, rộp phồng tay "đánh vật" với lớp đá ong dầy gần 4 mét, ròng rã cả tháng trời mới hoàn thành. Hôm khánh thành, các cụ già trong làng và cha xứ, thuộc giáo xứ Hòa Sơn cứ nắm bàn tay chai sạn của bộ đội, mắt rưng rưng mà không nói nên lời.
Tôi đã được chứng kiến cảnh cụ bà Nguyễn Thị Huy, tay vốc từng vốc nước trong vắt múc từ giếng mới xây, phả lên mặt, lên cổ rồi cứ để cho những giọt nước chảy dài ngấm vào chiếc áo đã bạc sờn, cụ ngồi rõ lâu như để tận hưởng, để cho nước ngấm vào da thịt giữa trưa hè nắng cháy. Tay chỉ đôi thùng gánh nước cụ nói với chúng tôi: "15 tuổi tôi đã làm bạn với đôi thùng, tính ra đến nay vừa tròn 60 năm. Thay bao nhiêu đôi thùng, thay bao nhiêu cái đòn gánh tôi không nhớ hết. Ngày hai buổi phải đi xa hơn một cây số mới có nước mà ăn. Giờ có giếng nước của bộ đội ở giữa thôn, cái vai này đỡ cực. Dân làng tôi nói với nhau, có ai cho vàng cũng không quý bằng những giếng nước của Bộ đội Cụ Hồ”. Tôi nhẩm tính, 60 năm là 21.600 ngày, một ngày đi về hai vòng chỉ để gánh nước, cuộc đời cụ Huy đã đi trọn 86.400 cây số.
Chuyện giúp dân ở Hòa Bắc sau này, vẫn cánh lính ta, cả tháng trời ròng rã. Bộ đội trần lưng dưới nắng lửa lao động thủ công, sức lính dời những tảng đá lừng lững, sức lính phát quang những cánh rừng tạp, sức lính biến nơi hoang vu thành một vùng quy hoạch có lớp nang bài bản. Phóng tầm mắt nhìn công sức của bộ đội đổ xuống để có làng định cư cho dân, mỗi hộ có một căn nhà xây (thành phố cấp kinh phí, bộ đội giúp địa phương xây dựng) và chừng hai mẫu đất canh tác thuộc loại "bờ xôi, ruộng mật", làng xóm có đường đi, lối lại bằng bê tông mới thấy ý nghĩa biết chừng nào. Nhìn làng đồng bào được quy hoạch, tôi chợt nghĩ, có lẽ không ở đâu làm tốt công tác định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số như ở Đà Nẵng.
Lúa nước và nuôi cá đối với đồng bào dân tộc Cơ-tu ở đây cũng có khá nhiều chuyện vui. Ngày bộ đội thao tác cho bà con xem việc trồng lúa nước, khi ruộng được dẫn nước vào bừa đã ngấu, mặt ruộng xâm xấp nước phẳng lỳ. Bộ đội quần xắn móng lợn, tay bê mẹt thóc giống ủ đã lên mầm vãi đều trên ruộng. Dân làng xúm xít, người xem, người ngỡ ngàng hỏi:
- Ơi bộ đội! Sao hạt thóc nó lại mọc cái rễ, mà không phải cây lúa mọc ra cái rễ.
- Ơi bộ đội! Cái rễ dài ra chừng nào thì cho nó về ở với ruộng...
Những câu hỏi đại loại như vậy, được bộ đội giải thích cặn kẽ. Ngày ngày dân làng tập trung quanh bờ ruộng xem cây lúa nó lớn, xem nó ra bông cho hạt trĩu vàng, ai cũng tấm tắc, trầm trồ, mắt sáng long lanh. Chỉ qua vụ đầu bộ đội làm mẫu, bà con đã biết cách chọn giống ủ mầm, biết làm cho ruộng ngấu để gieo trồng, biết canh tác thuần thục... Tận dụng những vùng trũng thấp, bộ đội đào ao, khuân đá đắp kè, làm mương dẫn nước từ suối vào ao, cử người về trại mua cá giống. Hôm thả cá xuống ao, bà con kéo đến đứng chật bờ ao, người thì chỉ trỏ, người thì bàn tán xôn xao. Đã bao đời nay, người Cơ-tu chỉ biết bắt con cá ở suối, chứ có bao giờ biết nuôi cá là gì. Anh A Thơi, một thời là du kích, đã từng ăn, từng ở với bộ đội trong những năm chiến tranh mạnh dạn lên tiếng:
- Ơi bộ đội! Chúng mày thả con gì nhỏ như cọng tăm sao mà thành cá được. Đến bao giờ thì dân làng chúng tao mới nhìn thấy con cá như ở dưới suối, dưới sông.
Ngày qua ngày, đàn cá giống đủ loại lớn nhanh trông thấy, cứ mỗi chiều bộ đội cho cá ăn, thức ăn là những thứ rau trồng quanh bờ ao, là thứ cám như để nuôi heo, là người già con trẻ xúm xít đến xem. Già làng băn khoăn hỏi bộ đội Vinh (Đồng chí trung tá Trần Đình Vinh, trợ lý dân vận của đoàn):
- Bộ đội Vinh à, sao cá nó biết nghe tiếng người, nó biết đến giờ cho ăn mà tập trung thành đàn vậy. Mai mốt bộ đội về rồi, cá nó có biết nghe lời đồng bào mình không...
Anh Vinh cùng tổ khuyến nông đã dày công làm được những việc cho đồng bào mắt thấy tai nghe. Và bây giờ là đến lúc anh chính thức bàn giao công việc nuôi cá lại cho đồng bào.
Vào một ngày cuối năm 2003, khi mà tiết trời đã chuyển sang Xuân, bộ đội các đơn vị trong Đoàn B75, ai được về phép Tết đã rục rịch mua vé tàu để sớm về với gia đình, số ở lại trực đã rậm rịch gói bánh, giã giò chuẩn bị đón năm mới. Ngoài cổng doanh trại bỗng xuất hiện ba chiếc xe hon đa, hai chiếc chở 4 người, còn một chiếc chở chiếc thùng rõ to.
(Còn nữa)
ĐẶNG TRUNG HỘI