Nhường nhà cho Đặc công…
Chạm chân đến miền đất lửa Vĩnh Linh, chúng tôi choáng ngợp với những ký ức sâu đậm qua câu chuyện của các cựu chiến binh Đặc công Hải quân và quân dân nơi đây về những trận đánh; những gian khó, hiểm nguy; những nghĩa tình của bà con dành cho những người một thời “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”.
Trời mưa. Đường từ nhà ông Nguyễn Viết Hạnh (thôn Thủy Trung, xã Vĩnh Trung, huyện Vĩnh Linh) ra đồi Cát nhem nhép những bùn. Gần đến rừng tre, sợ ông cụ gần 80 tuổi vất vả cộng với thương cánh phóng viên nên anh cán bộ xã nài nỉ: “Thưa ông! Ông cứ đứng ở đây chỉ cho chúng cháu chỗ mấy cái hầm là được”. Đột nhiên, ông cụ trở nên nóng tính: “Đã chỉ là phải chỉ tận nơi tận chốn. Bây giờ tôi còn sống còn chỉ được. Mai sau tôi chết, các anh biết chỗ mô mà chỉ, hay là lại chỉ bậy chỉ bạ!”. Trong khi ông Hạnh chỉ cho chúng tôi đâu là hầm của ông Mai Năng (Đội trưởng, sau này là Anh hùng LLVT nhân dân, Tư lệnh Binh chủng Đặc công), đâu là hầm của ông Xoa, ông Chính, đâu là khu nhà bếp, hầm làm việc… thì chúng tôi chỉ biết nhìn nhau. Khiếp thật! Đúng là một bài học.
Ông Hoàng Ngọc Thục (ngoài cùng, bên trái) trò chuyện với tác giả. Ảnh: QUANG THANH.
Những năm 1966-1973, Đội 1, Đoàn Đặc công 126 về đóng quân tại xã Vĩnh Trung, huyện Vĩnh Linh. Căn nhà ông Nguyễn Viết Hạnh, Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND xã được chọn làm sở chỉ huy của đội. Bộ đội về đông, hầm ít, ông Hạnh động viên gia đình nhường chiếc hầm còn lại cho các chú, còn gia đình ông ra làm hầm ở ngoài đồi Cát.
Ngày ấy, vùng đất Vĩnh Linh, nơi Đặc công Hải quân chọn làm hậu cứ nằm gần giới tuyến quân sự và hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra. Đây là vùng tự do của ta, cũng có nghĩa là vùng để pháo địch từ bờ Nam “tự do” bắn phá. Ở một vùng quê nghèo khó và là chiến trường ác liệt như vậy nhưng Đặc công Hải quân thực sự được sống trong sự thương yêu đùm bọc của bà con; họ được sống trong một thế trận lòng dân vững chắc.
Nhắc đến chuyện làm hầm, ông Sênh hào hứng kể: “Muốn làm hầm thì phải chặt cây. Cây thì có chủ. Nhưng với chúng tôi thì các bọ, các mạ cho chặt thoải mái. Pháo địch rót cầm canh nhưng cứ thấy chúng tôi đánh tàu về là bà con nhường hầm cho ngủ, vì ngủ trên nhà không an toàn. Nhà nào cũng vậy cả đấy anh ạ”. Nói về tình cảm của bà con Vĩnh Trung đối với bộ đội, ông Sênh cho biết: “Nhân dân coi chúng tôi như con cái trong nhà. Có trận, tôi chưa về được, hôm sau mọi người không thấy tôi liền ra khu vẫn chôn liệt sĩ xem có tên tôi ở đấy không. Hễ thấy vắng một ai trong chúng tôi là bà con lại băn khoăn, lo lắng…”.
Bà Trần Thị Thí hồi ấy là Bí thư Xã đoàn Vĩnh Trung, kể lại: “Bà con chúng tôi luôn thống nhất và nhắc nhau thực hiện “ba không” (không nghe, không biết, không thấy). Một hôm, tôi được mời lên dự lễ. Ông chỉ huy cho treo lá cờ lên. Mọi người đứng lên thề. Một anh nói với tôi: “Chúng tôi đi chuyến này chắc không thể trở về, thôi chia tay chị nhé!”. Nhìn các anh, tôi khóc, mà không dám khóc to. Sau này, chúng tôi gọi những buổi lễ như vậy là lễ truy điệu sống...”.
… Giấu “cộng sản” trong sào huyệt địch
Rời Vĩnh Linh, chúng tôi về Cửa Việt. Trước đây, bà con ở Cửa Việt sống bằng nghề đánh cá và làm ruộng. Từ tháng 12-1966, địch dồn hết dân đi nơi khác để lập vành đai trắng. Tuy nhiên, các đoàn thể quần chúng cách mạng ở các khu Bắc Cửa Việt, Đông Hà… vẫn bí mật hoạt động, sẵn sàng giúp đỡ Bộ đội Đặc công.
Trong một chiến trường hẹp, mật độ thương vong, nguy hiểm cao, mỗi chiến sĩ đặc công phải đương đầu với hàng trăm tên địch nên nếu không dựa vào dân, không được dân che chở thì chắc chắn sẽ không hoàn thành nhiệm vụ. Ông Nguyễn Văn Tình (Phó đô đốc, Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân) xúc động: “Được cơ sở đùm bọc, chở che, chúng tôi như được sinh ra nhiều lần chứ không phải một bởi có những lúc, khoảng cách giữa cái sống và cái chết chỉ là sợi tóc chứ không phải là gang tấc”.
Bà Hoàng Thị Thỉ ở phường Đông Giang, thành phố Đông Hà nhớ lại: “Ngày ấy, nhà tôi cứ đào hầm ở chỗ nào là chỗ ấy có kiến. Mà hầm có kiến thì không thể ở được. Một lần, địch càn đến nhà. Lúc ấy, trong nhà đang có ông Tình cùng một số anh em. Thấy địch, mẹ tôi cuống lên. Tôi bảo mẹ cứ sang bên kia cầu, hễ có chuyện gì thì chạy về dưới Vinh Quang mà trốn. Còn con, con cùng chiến đấu với các chú bộ đội, chết thì thôi. Nhưng thật may, vườn nhà tôi có rất nhiều khế và ổi. Tuy rất run nhưng tôi vẫn cố gắng cười thật tươi, hái từng trái khế, quả ổi xuống khoe với bọn địch. Bọn địch xúm quanh tôi ăn khế và ổi. Đến giờ cơm, vừa nghe tiếng còi là tụi nó phủi quần đứng dậy gọi nhau ra về. Thế là mọi chuyện yên ổn, vậy mà mẹ tôi khi trở về nhà tay chân vẫn chưa hết run”.
Qua bà Thỉ, chúng tôi biết bà có hai anh rể hoạt động cho “phía bên kia”-ông Hoàng Ngọc Thục, ông Hoàng Ngọc Duyệt. Trong thời kỳ chiến tranh, hai ông từng chạm trán với tổ đặc công của ông Tình ngay trong ngày giỗ của gia đình. Ông Duyệt đã mất nên bà Thỉ dẫn chúng tôi tìm gặp ông Thục ở thôn Thượng Nghĩa, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ. Gặp chúng tôi, ông Thục kể: “Ngày kỵ là mồng 3-3 âm lịch năm 1967. Dì Thỉ đi chợ nên hai chúng tôi vô quét dọn. Ông Duyệt vô buồng lấy chiếu thì thấy 4 ông đặc công ở đó. Thấy ông Duyệt vứt chiếu đùng đùng bỏ đi, tôi lo lắm. Tôi vội chạy đón đầu và nói: “Hôm nay là ngày kỵ, anh có muốn làm gì thì cũng để cho gia đình mình yên. Mà sau hôm nay, tôi cũng cấm anh không được khai báo gì chuyện đó”. Cơm tối xong, tôi lên chỗ ông Duyệt đóng quân để nghe ngóng. Tôi thăm dò cả chỗ bạn tôi làm cảnh sát ngụy nữa. Thấy yên tâm rồi, tôi mới về lại nhà dì Thỉ. 9 giờ đêm, ông chỉ huy 4 người đó hẹn gặp tôi. Chúng tôi ngồi ngoài hiên nói chuyện. Tôi cũng có học thức nhưng nghe ông ấy nói, tôi biết ông ấy là người rất có trình độ. Đi lính 3 tháng, tôi về thăm nhà và được dì Nguyệt giác ngộ nên hai anh em cũng hiểu nhau hơn. Tôi nghe ông và sau đó có dịp lấy được lựu đạn của Mỹ, tôi lại giấu đi rồi gửi về cho ông”.
… Và chuyện từ một bí thư
Ông Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị quê ở xã Vĩnh Trung, huyện Vĩnh Linh. Một chút thời gian ít ỏi ông dành cho chúng tôi ở trụ sở với điều kiện: Không ghi hình, không phỏng vấn vì ông chỉ là thế hệ sau. Ông muốn chúng tôi tìm hiểu nhiều hơn từ các nhân chứng. Ông chỉ kể với chúng tôi một kỷ niệm.
Ngày ấy, nhà ông có 7 người của Đoàn 126 đến ở. Vườn sau nhà ông là nơi bộ đội làm hầm. Năm 1970, ông Hùng đi sơ tán. Đến hè, cậu bé 9 tuổi này về thăm nhà. Chú Tiến là liên lạc của ông Mai Năng rất quý trẻ con, nên hay dắt Hùng xuống hầm chơi, đưa Hùng về cả chỗ các ông ăn cơm. Rồi mỗi lần ra trận, họ lại lấy nhọ nồi, nhựa khoai lang bôi trát đầy người, quệt cả vào má của cậu để “làm duyên”. Một hôm, ông thấy vắng người liền hỏi: “Các chú ấy đâu” thì thấy bố mẹ ông không trả lời, chỉ khóc. Ông xuống hầm thấy bên cạnh 4 chiếc ba lô là 4 bát cơm cùng 4 nén nhang thờ…
Kỷ niệm về Bộ đội Đặc công mà ông Hùng được chứng kiến đã khắc sâu trong ông. Muốn trở thành Đặc công Hải quân như những thần tượng của mình, học xong cấp 3, ông Hùng làm đơn xung phong vào Bộ đội Đặc công Hải quân. Chỉ tiêu tuyển quân của xã không có Đặc công Hải quân nên ông được tuyển về Đoàn 403 Hải quân. Đây là đơn vị huấn luyện lính thủy đánh bộ và đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Hơn 4 năm sau, ông Hùng xuất ngũ…
Đến Đông Hà, Cửa Việt, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện cảm động về sự che chở của người dân với Bộ đội Đặc công trong lúc nan nguy. Một người chị đánh, mắng em vô cớ vì “đái dầm” để xua đi nghi ngờ của địch về vũng nước từ quần áo các anh đọng lại trên nền nhà. Một người mẹ quét lá rụng ở bìa làng thấy lộ mặt chiến sĩ Đặc công đã ngụy trang lại cẩn thận mà không khai báo. Mỗi chiếc đèn chai thờ Thông Thiên sáng hay tắt đều là ám hiệu nguy hiểm hay an toàn trong khu vực. Ở đó, có những người mẹ, người chị, người em sẵn sàng giúp đỡ Bộ đội Đặc công Hải quân dù có bị thủ tiêu; giam cầm, tra khảo tàn độc đến chết. Ở đó, có những đồng đội trong LLVT địa phương sẵn sàng giúp đỡ để Bộ đội Đặc công luồn sâu, đánh hiểm. Sự đùm bọc của những người như bà Tham, bà Tâm, bà Ngọc, bà Diệu, bà Lành, ông Bốn… với Bộ đội Đặc công Hải quân thật khó có thể ghi hết trong bài viết này.
Ta thắng địch vì có thế trận lòng dân vững chắc. Bởi thế, sự tri ân với quân dân Quảng Trị cũng không bao giờ phai nhạt trong mỗi cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam. Nếu ở bờ Bắc, Bộ đội Đặc công Hải quân được sống trong sự thương yêu, đùm bọc của bà con, thì ở phía bờ Nam, bà con chính là tai mắt, là lá chắn giúp họ lập nên chiến thắng...
NGUYỄN VĂN TOÀN