QĐND - Lần này, tôi đến bản Ra Mai (thuộc xã Trọng Hóa, Minh Hóa) một trong những bản khó khăn nhất của miền tây Quảng Bình để tặng sách vở cho học sinh. Ý nghĩa của việc làm “kết nối tấm lòng ấy” giúp chúng tôi có những trải nghiệm quý về tình người, tình thầy trò, và cái tâm của những người đưa chữ lên non.

Bạch Vũ Hưng là giám đốc của một công ty TNHH, quê gốc Nghệ An, sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, nhiều năm qua anh đã tham gia “công tác xã hội”. Về cơ bản nhiều bản làng xa xôi miền Tây Bắc Tổ quốc đã được nhóm “công tác xã hội” của anh Hưng giúp đỡ về vật chất. Đợt này, qua thông tin trên internet của các nhóm “công tác xã hội” tỉnh Quảng Bình kêu gọi đưa sách vở vào giúp đỡ học sinh Trường Ra Mai (tên chính thức là THCS số 2 Trọng Hóa), nhóm đặt quyết tâm thực hiện trước ngày khai trường. Chỉ trong khoảng một tuần kêu gọi đóng góp sách giáo khoa, vở học sinh, nhóm đã thu được khoảng một tấn sách. Một tấn sách đó được tôi và Bạch Vũ Hưng trực tiếp áp tải vào Ra Mai. Tấm lòng bà con Hà Nội gửi gắm, niềm háo hức mong chờ sách mới của các em học sinh khiến chúng tôi muốn mau chóng “bay” đến nơi. Qua một đêm dài vật vã trên chiếc xe hàng liên vận đi Lào, đến mờ sáng chúng tôi đã tập kết hàng ở Khe Ve (nằm ở ngã ba Đường Hồ Chí Minh và Đường 12A) và có thêm lực lượng của các nhóm “công tác xã hội” ở Quảng Bình. Hai anh Nguyễn Thắng và Trung Kiên đi xe máy cả đêm từ Đồng Hới lên, đường xa đến 120 cây số nhưng đến 5 giờ sáng đã “điểm danh” đầy đủ. Chúng tôi nhằm hướng dãy Giăng Mùng xốc tới…

Bàn giao sách giáo khoa do bà con Hà Nội quyên góp tặng học sinh Trường Ra Mai

Quảng Bình đã chịu mấy đêm mưa do ảnh hưởng của cơn bão trên Biển Đông. Sáng đó mưa vẫn tầm tã rơi. Vậy là phương án nhờ các thầy trong Trường Ra Mai ra “tăng bo” sách đành bỏ. Bởi có nhiệt tình đến mấy thì xe máy cũng không tài nào vượt ngầm được. Cũng may, anh em Quảng Bình nhanh trí, thuê trước cho một chiếc xe tải, và cũng may nữa là được bác tài xế nhiệt tình, mưa lũ cũng cả quyết đi. Vậy là sách được chuyển vào Ra Mai. Tất nhiên trên chặng đường 30 cây số từ Khe Ve vào đến Ra Mai, anh em cũng phải nhiều lần xuống xe, đội mưa san đường, song niềm vui được thấy các em có sách mới khiến ai nấy đều cảm thấy ấm áp trong lòng. Nhờ đó mà mấy sự vất vả trên đường trở nên nhỏ bé.

Bảy giờ sáng, xe đã đến Trường Ra Mai. Các thầy trong Ban giám hiệu nắm tay chúng tôi lắc lắc, mắt môi cùng cười như xua tan đi cái giá lạnh: “Giỏi thật, giỏi thật”. Chúng tôi, bốn người, vuốt nước mưa trên mặt mà lòng thấy ấm lên rất nhiều. Ngẫm ra cũng giỏi thật, chừng đó đường đất mà sách vở, vật chất đều “an toàn”. Cũng phải nói thêm rằng, trong “đám” vật chất đó có mấy cái máy in, mấy cái ti vi là đồ “kỵ nước”, ai nấy tự giác lấy người che mưa suốt quãng đường ướt át đó. Tất cả đều vô sự.

Trường Ra Mai nằm giữa bản, phía trước có con đường đất đi xuống suối Cô Pi, phía sau có con đường bê tông đi bản Si. Con suối Cô Pi bắt nguồn từ dãy Giăng Mùng nằm sát biên giới Việt-Lào, là thượng nguồn của sông Gianh. Thường ngày con suối trong xanh hiền hòa, nhưng hễ có mưa xuống là vật mình dở chứng. Suối lồng lộn vượt qua đường bê tông, làm vỡ những ta-luy đường, cuốn sạch những thân cây to đến mấy vòng tay ôm. Học sinh Trường Ra Mai phần lớn là con em đồng bào Vân Kiều đều sống quanh lưu vực con suối này nên chuyện phải bơi đến trường không phải hiếm gặp. Đường bê tông lên bản Si được Nhà nước đầu tư rất chắc chắn nhưng cũng không chịu được những cơn lũ bất thường của con suối Cô Pi này.

Trường Ra Mai có 7 điểm trường, xa nhất là điểm trường bản Lòm, cách trường 18 cây số đường rừng. Mỗi tháng một lần, các thầy cô khoác ba lô gạo, mắm, quần áo, sách vở đi bộ cả ngày mới vào tới nơi. Cơ sở vật chất chẳng có gì. Lớp là một cái kho cỏ cũ, chỗ ở cũng không có, phải vào ở nhờ nhà dân. Đêm rét không đủ chăn đắp, ngày nóng không đủ nước dùng… vất vả vô cùng. “Vậy đã thấm gì”-Thầy Nguyễn Mạnh Hùng, Phó hiệu trưởng Trường Ra Mai tươi cười nói: “Đi vận động học sinh khó, giữ chân học sinh khó và dạy để học sinh nhớ được kiến thức còn khó hơn gấp mười”.

Các em học sinh trường Ra Mai.

Người Vân Kiều ở Trọng Hóa có mặt bằng học vấn thấp, nhưng trong gia đình lại “tôn trọng” ý kiến con cái thái quá. Họ nói thế này: "Mình vẫn biết học cái chữ là tốt, mình cũng động viên con rồi, nhưng đi học hay không là do nó chứ"... Vậy là các thầy cô lại phải ra “tỉ tê” với từng em: “Đi học vui lắm, được hát này, được chơi này, có sách nhiều hình đẹp lắm…”. Có em “ưng cái bụng rồi”, nhưng đến trường, học cái chữ khó quá lại bỏ về. Thầy cô lại đi vận động thêm “năm lần bảy lượt” nữa mới tạm ổn định. Nhưng ổn định rồi vẫn chưa yên, phải giúp các em nắm vững kiến thức ấy mới là việc khó. Bởi vậy, các thầy cô trong trường ai cũng tự học thạo tiếng Vân Kiều để phục vụ cho việc vận động học sinh và giảng dạy. Dạo vòng quanh trường, chúng tôi thấy nhiều lớp dạy kèm chỉ có 2, 3 học sinh, việc giúp học sinh nắm vững kiến thức bắt đầu từ những lớp như thế.

Được tin đoàn chúng tôi mang sách đến, cô Đinh Thị Nga vui lắm. Cô làm việc luôn chân luôn tay nhưng vẫn vui vẻ kể chuyện. Đối với một giáo viên “kiêm quản” thư viện trường như cô Nga thì không có niềm vui nào bằng dịp sách về. Ba năm trở lại đây, Trường Ra Mai “phát triển” về sĩ số nhanh quá. Lúc lập trường năm 2007, ước có 100 học sinh, nhưng giờ đã có đến 500. Sách vở thiếu rất nhiều. Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đại Khờn phân trần: “Trường cũng làm công văn gửi lên các cấp trên rồi nhưng… trên chưa cấp kịp”.

Việc thiếu sách có mấy nguyên nhân: Đầu tiên là về ý thức giữ gìn sách vở của học sinh chưa tốt; thứ hai là vì điều kiện đi lại khó khăn, ví như có học sinh phải bơi qua suối thì việc giữ sách học được một năm đã là quý rồi; thứ ba là sĩ số học sinh tăng nhanh, sách học sinh năm trước để cho năm sau không đủ; thứ tư là kinh tế nhân dân còn khó khăn, hầu như các gia đình cho con học đều “trăm sự nhờ thầy”. Đó là về sách giáo khoa. Còn về vở để ghi chép bài cũng vậy, học sinh chờ nhà trường phát vở. Theo tính toán,  học sinh THCS cần 15 cuốn/năm; học sinh tiểu học cần 7 cuốn/năm, nhưng trường chỉ “bao cấp” được 20% nhu cầu này. Vì thế mà chuyện giáo viên phải bỏ tiền lương mua vở cho học sinh khá phổ biến.

Ngoài trời mưa vẫn rơi nặng hạt, có tiếng trống tan trường. Học sinh túa ra, đội mưa lội đất lép nhép. Đứa nào đứa nấy giữ khư khư các cuốn vở, cuốn sách vào người cho khỏi ướt. Chẳng mấy đứa có cái cặp tử tế. Tôi hỏi thầy Hùng để thầy chỉ cho gặp hai em Hồ Xoan và Hồ Thị Soát. Hai chị em này nhà ở bên kia suối Cô Pi, sát chân dãy Giăng Mùng. Trông qua tưởng với tay là tới nhưng đi cũng mất nửa buổi. Nghe chuyện thầy cô đi vận động hai em này đến trường nói, nhà các em rất nghèo. Hai đứa cũng đã vài lần bỏ học nhưng nhớ trường nhớ lớp, nhớ bè bạn và những buổi ca hát vui vẻ, chúng lại tự tìm đến trường. Ngày nào hai chị em cũng đi học từ mờ sáng, và suốt năm qua đến trường rất đều. Tôi muốn gặp để tặng chút tiền chứ chẳng định phỏng vấn gì. Thế nhưng khi bọn trẻ vừa thấy thầy vẫy tay gọi đã chạy túa đi hết. Ánh mắt chúng vừa tinh nghịch vừa có vẻ sợ sệt. Muốn chụp ảnh các em tôi phải dùng ống kính tê-lê. Ấy thế nhưng hễ phát hiện ra “bị” chụp ảnh là các em đều lấy tay che mặt vừa cười, vừa chạy vào lớp. Hai cậu Thắng, Kiên rất tinh nghịch chạy đuổi bắt với đám trẻ, nhưng chúng có những đôi chân thoăn thoắt, loáng cái đã biến đi đằng nào.

Bạch Vũ Hưng hỏi thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đại Khờn xem trường còn cần thứ gì nữa để lần sau anh em trong các nhóm “công tác xã hội” kêu gọi giúp đỡ. Thầy Khờn gượng cười nói: Nếu có mấy tấm bảng thì tốt. Mọi người cùng à lên. Cái bảng dài 2,8m, nếu mang từ Hà Nội vào đây là kỳ công lắm. Nhưng cũng đáng. Bởi nãy giờ chúng tôi cũng để ý đến những tấm bảng đen ở trường, là những ván gỗ, miết bằng nhựa chuối với than. Thứ bảng viết "quý hiếm" này đúng ra đã bị "tuyệt chủng" từ lâu rồi, tại sao mà Trường Ra Mai còn lưu giữ. Các thầy giáo trẻ nói: Học sinh thích lắm đấy, em nào được phân công đi chặt tàu chuối chùi bảng đều rất xăng xái. Mọi người còn đang kể lại những kỷ niệm về bảng chùi bằng nhựa chuối thì lại nghe tiếng trống trường, trống giữa buổi trưa. Chúng tôi còn đang ngạc nhiên thì thầy Khờn giải thích: “Ấy là tiếng "trống đòi". Vì học sinh ở xa trường, nên đánh "trống đòi" để nhắc nhở các em trước 30 phút. Em nào còn đang đi thì đi nhanh lên, em nào mà chưa đi thì đi là vừa. Ấy, học sinh miền núi nó vất vả thế đấy!”.

Các em vất vả, chúng tôi biết lắm chứ, nhưng vì kính trọng thầy, vì yêu cái chữ mà vất vả… Thoáng nghĩ vậy ai nấy đều cay cay nơi khóe mắt.

Bài và ảnh: LÊ ĐÔNG HÀ