QĐND Online - Tháng 3-1946, đại tá Nguyễn Đức Khuy, nguyên phó Sư đoàn trưởng quân sự Đoàn phòng không B65, lúc đó là một chàng trai tuổi tròn đôi mươi xin ra nhập du kích quân hoạt động trong vùng núi rừng Yên Thế. Ngày 27-8-1947 được biên chế vào Tiểu đoàn 54, Trung đoàn Thủ đô. Từ đó liên tục không nghỉ, ông đã tham gia chiên đấu và công tác trong quân đội suốt 34 năm 8 tháng. Mười năm chỉ huy trung đoàn chốt trụ kiên cường bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng, góp phần cùng quân và dân Thanh Hoá làm nên những chiến công kỳ diệu bên dòng sông Mã mến yêu.

Từ lúc trở thành chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô, cuộc đời chinh chiến của ông gắn bó với trung đoàn từ năm 1947 đến năm 1959. Theo bước chân và chặng đường hành quân chiến đấu của trung đoàn liên tục trong 10 chiến dịch lớn, từ chiến dịch Sông Lô năm 1947 đến chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Người thanh niên Bắc Giang được hun đúc tinh thần ý chí của Đảng, của Bác Hồ, đã truyền ngọn lửa nhiệt huyết cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sau hơn một năm phấn đấu, tháng 8-1947, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Trong gian khổ, hiểm nguy ác liệt, giáp mặt với quân thù, trong những cuộc hành quân bộ dài hun hút băng rừng lội suối vượt núi cao, sông sâu, từ Đông Bắc sang Tây Bắc, cuộc sống thiếu thốn trăm bề song không một lần ông gục ngã. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với đội hình Tiểu đoàn 54 hai lần xung phong đánh chiếm đồi A1, lần thứ 2 ta đã kiểm soát hoàn toàn thì máy bay địch ném bom huỷ diệt, cả Tiểu đoàn hy sinh, riêng ông nằm sát lô cốt bị đất vùi lấp ở độ sâu 1,2 mét, nhưng còn thoi thóp do có không khí từ trong lô cốt thông qua lỗ châu mai, được đồng đội đào bới lên cấp cứu kịp thời. Sau 10 ngày khi chưa bình phục ông lại xin về đơn vị chiến đấu. Từ một người chiến sĩ, ông đã phấn đấu trở thành cán bộ trung đội, đại đội, rồi cán bộ tác chiến của trung đoàn, sau được chuyển về làm tiểu đoàn phó khung thuộc Trung đoàn pháo phòng không (PPK) 367.

Cầu Hàm Rồng xưa. Ảnh minh họa/internet.

Sau khi tốt nghiệp khoá đào tạo ngắn hạn về PPK ở nước bạn, cuối năm 1959, ông về làm Trưởng ban tác chiến rồi Trung đoàn phó trung đoàn PPK 228 (mang tên đoàn Hàm Rồng), là lực lượng nòng cốt bảo vệ cầu Hàm Rồng.

Trong suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, địch luôn xác định từ Hà Nội đến đường mòn Hồ Chí Minh có 60 “điểm tắc” thì cầu Hàm Rồng là “điểm tắc lí tưởng nhất”. Chiếc cầu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trên huyết mạch chi viện của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Từ năm 1965 đến năm 1972, quân và dân Thanh Hoá phải hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của 2.857 tốp máy bay. Có 102 lần B52 rải thảm, 4.300 lượt tàu chiến Mỹ bắn pháo vào đất liền như cơm bữa với lượng bom đạn lớn (220.000 tấn), máy bay C130 rải thuỷ lôi vào thượng nguồn Sông Mã để phá cầu…

Thời gian đầu triển khai chiến đấu, trung đoàn bắn không rơi tại chỗ, hiệu suất chiến đấu thấp. Với cương vị là trung đoàn phó, ông luôn đặt câu hỏi cho mình tại sao không chiến thắng? Và ông đã tìm thấy câu trả lời đó bằng tiếp xúc với từng kíp chiến đấu, khẩu đội pháo rút kinh nghiệm, lắng nghe quần chúng; nghiên cứu kỹ quy luật thủ đoạn hoạt động của địch; kỹ chiến thuật phân đội PPK; nắm chắc thực tế địa hình  địa vật. Ông đã trèo khắp các ngọn núi, các đồi cao, lội xuống các cánh đồng quanh khu vực cầu Hàm Rồng tìm nơi bố trí trận địa, trực tiếp quan sát thủ đoạn đánh phá của địch, hiệu quả đánh trả của ta và các lực lượng hiệp đồng, đề xuất với Đảng uỷ chiến thuật bố trí đội hình trung đoàn phải áp sát cầu Hàm Rồng, đồng thời hiệp đồng với tỉnh Thanh Hoá huy động bà con nhân dân hỗ trợ làm trên 30 trận địa. Có những trận địa phải bạt đá làm trên núi cao, nhiều trận địa làm dưới đồng trũng phải huy động sức người và máy san ủi đắp đê quai tát nước ra và đắp đất làm công sự trận địa, hầm trú ẩn cho bộ đội; bà con địa phương  đã huy động hàng ngàn tàu dừa mỗi đợt nguỵ trang, hiến hàng trăm tấm cánh cửa, phản nằm lót xuống ruộng lầy để xe kéo pháo vào trận địa. Những lúc gian khổ vất vả, ông luôn mưu trí sáng tạo trong chỉ huy, đồng cam cộng khổ lao động cùng bộ đội và bà con địa phương, thường xuyên kiểm tra tỷ mỷ, hướng dẫn từng phương pháp nguỵ trang, làm trận địa giả nghi binh lừa địch, góp phần quan trọng vào chiến công của trung đoàn.

Cầu Hàm Rồng nay. Ảnh minh họa/internet.

Tháng 10-1965, ông được giao làm Trung đoàn trưởng PPK Hàm Rồng, suốt 10 năm liền chỉ huy trung đoàn kiên cường bám trụ bảo vệ cầu Hàm Rồng. Trong mưa bom bão đạn của quân thù, Trung đoàn 228 đã đánh 921 trận, bắn rơi 120 máy bay, có 27 chiếc rơi tại chỗ, trong đó có chiếc thứ 2.000 trên miền Bắc, chiếc thứ 300 của Thanh Hoá và chiếc thứ 100 của khu vực Hàm Rồng. Đặc biệt có trận đánh xuất sắc ngày 14-5-1967 bắn rơi 5 máy bay Mỹ. Chiến công của trung đoàn góp phần quan trọng cùng với quân và dân Thanh Hoá bảo vệ vững chắc cầu Hàm Rồng, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho tiền tuyến, làm nên những chiến công kỳ diệu bên dòng sông Mã.

Trong niềm xúc động khi kể về những trận chiến đấu hiệp đồng với địa phương, về nghĩa tình của bà con khu Nam Ngạn Hàm Rồng, về trung đội trưởng dân quân kiên cường dũng cảm Nguyến Thị Hằng (nguyên là Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội), hai giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt cương nghị, hằn sâu dấu ấn thời gian của vị đại tá đang ở tuổi 84, ông đọc nhỏ nhẹ, khúc triết lời của nhà thơ Lê Đăng Sơn viết về huyền thoại cầu Hàm Rồng:

“Chiếc cầu ấy đã trở thành huyền thoại, Thần sấm con ma khóc mãi dưới dòng sông. Bao pháo thủ giữ Hàm Rồng thuở ấy, Biết bao người đã thành ông / Chiếc cầu ấy đã đi vào huyền thoại, Cô gái mảnh mai vác hòm đạn trăm cân. Đồi “Xê” 4 núi mắt rồng sáng rực, Pháo ta gầm cung tiếng súng dân quân”

Nghỉ hưu về địa phương năm 1981, sau 2 ngày ông lại được giao làm tổ trưởng Đảng, tổ trưởng an minh hoà giải. Tiếp đó là phó chủ tịch Hội cựu chiến binh phường, chi hội trưởng cựu chiến binh dân cư khu phố 5, phường Trần Nguyên Hãn, thị xã Bắc Giang, hàng năm đều là người cao tuổi mẫu mực, hoà giải viên xuất sắc, nhiều lần được địa phương tặng bằng khen, giấy khen. Ông được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Quân công hạng 3 và Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

84 tuổi đời, 60 năm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, tháng 8 năm 2006, ông mới nghỉ công tác ở địa phương. Các con ông đã lấy chồng ở riêng, ông cùng người ban đời sống cuộc sống mộc mạc, bình dị, mẫu mực, thuỷ chung mãi mãi với phầm chất “Bộ đội cụ Hồ”.

Cao Hiền