Tròn 50 năm đã qua, nhưng, nhưng âm hưởng, khí thế ra trận hào hùng mùa thu năm ấy vẫn vang vọng mãi, với những ký ức không thể nào quên.

Kỷ niệm những tháng đầu quân ngũ trên quê hương

Những chàng trai trẻ chúng tôi cùng lên đường nhập ngũ ngày 15-5-1972 và được biên chế vào Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 14, Tỉnh đội Thanh Hóa. Ngày 28-7-1972, sau hơn 2 tháng huấn luyện, cấp trên cho chúng tôi về phép để chuẩn bị đi B.

Được về phép, chúng tôi hồ hởi đi ngay, đi băm băm trong đêm. Chặng đường từ Như Xuân về nhà tôi ở huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa khoảng 50km mà với tôi không có gì xa cả. Dân làng biết chúng tôi được về phép để sau đó vào Nam chiến đấu, nên kéo đến thăm, động viên, cho tiền, mời ăn cơm chia tay, tình cảm thật bịn rịn.

Tác giả (thứ 2 từ phải sang) tại buổi tọa đàm lịch sử- truyền thống, do Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh (Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội tổ chức, tháng 12-2017). Ảnh: NAM THANH 

10 ngày phép qua nhanh, chúng tôi trở về đơn vị đủ 100% quân số. Một tuần trước khi đi, chúng tôi được nghỉ ngơi, nhận quân trang, ăn bồi dưỡng chế độ 1,5 đồng/ngày, đơn vị giết mổ lợn, gà thường xuyên để tăng cường cho bữa ăn, không khí thật náo nức, khẩn trương. Những ngày đó, đại đội thường sinh hoạt tập trung, dưới những tán cây to trước lán trại các trung đội. Chính trị viên Minh nói chuyện thời sự, thông báo tình hình chiến trường và động viên chúng tôi nhiều trước lúc lên đường.

Đồng chí nói: “Chúng ta lên đường vào Nam chiến đấu, đúng vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, là nguồn cổ vũ lớn lao. Chúng ta có vinh dự tiếp nối truyền thống cha ông đánh đuổi quân thù, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…”. Chúng tôi thường xuyên vui văn nghệ. Đồng chí Cần, người xã Thiệu Tân, huyện Thiệu Hóa vừa tốt nghiệp lớp 10 đã viết đơn xin đi bộ đội, hôm đó hát liền một lúc 10 bài, làm cho không khí đại đội càng thêm náo nức, những tràng vỗ tay không ngớt.

Sáng 19-8-1972, trước khi chuẩn bị hành quân, đại đội tôi tập trung ở nơi vẫn thường sinh hoạt, tất cả đã sẵn sàng. Cấp trên hạ lệnh “Xuất phát!”. Chúng tôi rầm rập lên đường, hành quân đội hình tiểu đoàn, khí thế hừng hực, cờ đỏ sao vàng, cờ giải phóng tung bay. Một số phóng viên hối hả chạy theo đơn vị, chọn vị trí phù hợp để chụp ảnh. Chúng tôi hành quân qua những triền đồi, càng về trưa cái nóng càng hầm hập; gian khổ vất vả dần được cảm nhận rõ. Chiều tối cả đơn vị đến binh trạm ở xã Tiên Nông, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, rồi đóng quân tại đó. Dừng chân mấy ngày, chúng tôi được nhân dân địa phương đón tiếp rất ân cần, thắm tình quân dân. Hàng ngày, hội các mẹ, hội phụ nữ, đoàn thanh niên… đến  thăm, động viên, giao lưu, tặng quà. Tôi còn nhớ như in hình ảnh các mẹ gánh trên vai những buồng chuối xanh nặng trĩu mang đến tặng đại đội để nấu ăn.

Khí thế hào hùng đường hành quân ra trận

Một buổi sáng sớm, chúng tôi lên đường, hành quân xa bằng những chiếc xe Zin ba cầu. Để đảm bảo an toàn, các lái xe làm thêm những cột phụ, chằng dây thép xung quanh cao hơn thùng xe, để khi đi vào đường xóc, đường cua, chiến sĩ không bị văng ra ngoài. Mặc dù trên thùng xe chật chội, nhưng chúng tôi rất vui, cùng hát vang bài “Chào em cô gái Lam Hồng” của nhạc sĩ Ánh Dương.

Hai hôm sau, xe đưa chúng tôi đến xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An - quê hương Bác Hồ kính yêu, trong lòng tràn ngập phấn chấn vì có “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Tối đến, chúng tôi hành quân bộ, lặng lẽ tiến xuống bờ sông Lam để vượt sông. Trong đêm tối, qua ánh nước, tôi thấy nhiều chiếc thuyền nhỏ, trên mỗi thuyền chỉ có một o dân quân chèo. Thuyền cập bến là bộ đội lên, tất cả đều rất trật tự, chỉ nghe tiếng của mái chèo khỏa nước. Hằng ngày có mấy anh hay tếu táo với chị em là thế, mà bây giờ ngồi im thin thít trước một người con gái nhỏ bé, giữa dòng sông mênh mông. Phải chăng, khi đã vào tình huống, thì mọi người phải tuân thủ, chấp hành.

Vượt sông an toàn, chúng tôi hành quân qua những xóm làng, bà con nhân dân đứng hai bên đường chào hỏi rất đông. Tiếng người lớn, trẻ em, các mẹ và cả các em gái nói cười rôm rả: “Các anh đi nhé!”, “Đi khỏe nhé!”, “Hẹn ngày chiến thắng trở về!...”, cùng những cái bắt tay vội vàng, không rõ mặt, rõ người trong đêm. Những ngày tiếp theo, chúng tôi hành quân bộ trên đất Hà Tĩnh, Quảng Bình, qua những trọng điểm máy bay địch đánh phá vô cùng ác liệt: Ngã ba Đồng Lộc, phà Xuân Sơn, phà Long Đại…, nhưng chúng tôi cứ “nhằm thẳng phương Nam mà tiến!”. Trong quá trình hành quân, tôi rất ấn tượng với chiến sĩ Ngôn, người xã Thiệu Giang, huyện Thiệu Hóa. Bình thường chẳng thấy cậu ta hát bao giờ, nhưng cứ hành quân là cậu ta lại hát. Hai tay ôm khẩu súng AK trước ngực, ba lô sau lưng, cậu ta hăng hái bước đi, miệng lẩm nhẩm hát bài: “Trên đường chúng ta đi” của nhạc sĩ Huy Du, cứ hát đi hát lại bài ấy cho đến trạm giao liên mới thôi.

Ảnh kỷ niệm hai bố con gặp nhau trên đường hành quân tại Quảng Trị cuối tháng 8-1972. 

Vào đến Lệ Thủy, gần chiều tối, chúng tôi hành quân ngược lên phía Tây để đi về phía những cánh rừng. Đang qua những quả đồi thấp trống trải, tự nhiên nghe tiếng rào rào trên đầu, ngay sau đó là tiếng nổ đùng đoàng khắp nơi trong khu vực đội hình hành quân. Pháo địch từ phía biển bắn lên. Không ai bảo ai, mọi người nhanh như cắt tìm nơi trú ẩn. Rất may, địch bắn chủ yếu vào cửa rừng, nên đại đội không có ai bị thương. Đó cũng là lần đầu tiên chúng tôi “thử lửa”, nhưng dường như ai cũng cảm thấy bình thường, vì biết rằng, sự ác liệt còn đang ở phía trước.

Đơn vị vào đến rừng thì trời đã nhá nhem tối, đường lên dốc, xuống dốc liên tục, mấy chiến sĩ ngã nháo nhào. Anh Vĩnh, người huyện Hoằng Hóa là cán bộ ngành giao thông, 32 tuổi, có 3 con, thuộc diện động viên, đi ngay trước tôi và ngã lăn xuống dốc, mớ rau cải anh mang theo văng ra, dập nát, tôi khuyên anh bỏ đi, nhưng anh vẫn cố mang về để nấu canh, kẻo ngày mai sẽ không có rau.

Đi trong rừng chẳng thấy đường, chỉ thấy mái đầu đồng đội lờ mờ ở phía trước, phải căng mắt để bám đội hình. Hôm hành quân qua huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị, chúng tôi chứng kiến những đoàn quân trùng trùng điệp điệp, vui như trẩy hội; có đoàn mặc quần áo đồng phục màu gụ. Họ là cán bộ của các ngành: Giáo dục, an ninh, dân vận… vào chi viện cho vùng giải phóng miền Nam. Thật kỳ diệu, những bước chân của các chiến sĩ năm này qua năm khác cứ chồng lên nhau, không biết bao nhiêu người, bao nhiêu đoàn quân, để lại những dấu dép cao su in trên đá, trên mặt đường mòn như tấm phên dài vô tận.

Chiều tà chúng tôi cũng đến được trạm giao liên. Đứng trên sườn núi nhìn xuống là một khung cảnh rộng bạt ngàn, có rất đông bộ đội, võng mắc la liệt, chỗ này mấy anh nấu cơm, chỗ kia mấy anh nấu kẹo đường, người cắt tóc, người trẻ củi… cảm giác thật vui vẻ, thanh bình. Rồi chúng tôi cũng được biết, đây là trạm giao liên Bãi Hà, nơi dừng chân của các đoàn quân trước khi vượt sông Bến Hải vào Nam chiến đấu. Đây cũng là trạm dừng chân của các chiến sĩ từ Nam ra Bắc.

Chiều tối hôm sau, đơn vị chúng tôi vượt sông Bến Hải, đoạn ở thượng nguồn, nước cạn, chảy xiết, chúng tôi bám theo dây cáp để vượt qua. Sang bên kia sông, nhiều anh reo lên: “Đất miền Nam đây rồi!”, có anh còn khẽ hát: “Miền Nam đang gọi ta, vượt Trường Sơn bay vọng ra…”; tất cả đều háo hức mong nhanh tới chiến trường. Tiếp theo là những ngày hành quân trên những cung đường Trường Sơn. Trong chiến tranh, không phải chỉ có sự ác liệt hy sinh, mà còn có nhiều cảnh sắc rất thi vị, nên thơ, với những đàn bướm trắng bay lập là, tiếng chim hót thánh thót vút lên không trung. Có những đêm chúng tôi dậy nấu cơm ăn để hành quân sớm, nhìn cảnh vật thật hùng vĩ, nên thơ; dòng suối róc rách, ánh trăng như dát bạc xuống tán lá rừng… Chúng tôi nổi lửa, bất giác nhớ tiếng hát trong trẻo cao vút của cô gái nuôi quân ở đơn vị huấn luyện mấy tháng trước: “…Trăng đã dậy rồi khơi bếp hồng lên nhé/Lá nếp rau rừng thêm ấm tình anh nuôi…”- một sự động viên đến kỳ lạ.

Có cung đường hành quân, chúng tôi lội suối gần cả ngày trời, cũng có cung đường đi qua những chiếc cầu treo bắc qua suối, cứ đung đưa, tròng trành, lắc bên này, nghiêng bên kia. Rồi những lần trèo dốc cao, đầu anh dưới chạm chân anh trên, phải bám vào nhau mà leo. Có cung đường, qua trọng điểm địch đánh phá, rừng bị thiêu trụi chỉ còn những thân cây cháy đen, chúng tôi phải chạy gằn liên tục để vượt qua nhanh nhất. Có đêm hành quân trên những sườn đồi trống hoác, qua những bãi cháy nham nhở còn khét lẹt mùi bom đạn, pháo sáng địch đỏ quạch, treo lơ lửng phía trước. Thật may mắn đối với tôi, cuối tháng 8-1972, trên đường hành quân, tôi bất ngờ gặp được bố - ông Nguyễn Sỹ Nghị, là lái xe Trường Sơn, tại một binh trạm ở Quảng Trị. Thời gian gặp gỡ quá ngắn ngủi, hai bố con không nói được gì nhiều, chỉ động viên nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ, hẹn sớm đến ngày chiến thắng để trở về quê hương.

Những ngày “đỏ lửa” nơi chiến trường Quảng Trị

Càng vào gần chiến trường, ý thức địch tình chúng tôi càng nâng cao, đi trật tự, đúng cự ly đội hình, truyền tin và chấp hành mệnh lệnh nhanh chóng, chính xác. Rồi một đêm, chúng tôi nghe tiếng súng bộ binh nổ rất gần. Sáng hôm sau đơn vị tập trung, chính trị viên Minh thông báo: “Địch đã chiếm được Thành cổ Quảng Trị cách đây ít ngày”. Nghe tin này, anh em chúng tôi thấy nhói đau trong ngực, ai cũng muốn nhanh chóng vào mặt trận. Nguyện vọng đó được đáp ứng ngay. Hôm sau đại đội chúng tôi bổ sung cho Sư đoàn 304 và Sư đoàn 308.

Trung đội tôi bổ sung vào Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 36, Sư đoàn 308 đang chiến đấu giữ chốt ở Tích Tường, Như Lệ. Khu vực này ở phía bờ Nam sông Thạch Hãn, ngay sát Thành cổ, lính sư đoàn dù ngụy nống ra đánh phá liên tục không kể ngày đêm, hòng chiếm lại vùng đất sát nách của chúng. Vừa vào trận địa, ngay đêm đầu tiên chúng tôi đã phải nổ súng đánh địch tấn công lên chốt. Tiếp theo là những ngày tháng chiến đấu vô cùng ác liệt dưới mưa bom, bão đạn của quân thù. Ta và địch giành giật nhau từng khoảnh đồi, đất đai bị cày xới, nhà cửa, cây cối bị băm nát. Những ngày trên chốt vô cùng căng thẳng, ác liệt, hầu như cả ngày chúng tôi phải nằm trong hầm, người cong như con tôm, quần áo mặc trên người cứ ướt rồi lại khô, cả tháng không được tắm, tóc dài trùm tai, râu ria lởm chởm, ai cũng gầy hốc hác…

Những ngày mưa trắng trời, chúng tôi bì bõm lội trong chiến hào quan sát địch; nhiều ngày phải ăn lương khô, uống nước từ các hố bom. Máy bay OV10, T28 của địch suốt ngày gầm rít trên đầu, liên tục tiếng bom đạn nổ và những chùm khói bốc lên. Nhìn về phía động ông Do, đồng đội cùng đơn vị khi vào Nam, đang ngày đêm chiến đấu ở đó. Cao điểm này có vị trí quan trọng ở phía Tây Quảng Trị, ta và địch liên tục giành giật nhau. Có hôm chúng tôi thấy ban ngày khói bốc lên, ban đêm có ánh lửa, đồng đội cho biết, đó là ám hiệu để pháo địch không bắn khi chúng chiếm được một phần cao điểm. Biết đồng đội đang kiên cường chiến đấu, càng cổ vũ động viên chúng tôi nhiều hơn.

Ngày ấy, chiến tranh vô cùng ác liệt, nhưng chúng tôi rất yêu đời. Thơ từ mái trường ra chiến trường đã ngấm vào trong tim từ lúc nào, giúp chúng tôi thêm tự tin, bình tĩnh, kiên gan hơn trong chiến đấu, trong bom đạn khốc liệt, cái chết cận kề và quân địch liên tục rải truyền đơn dụ chiêu hồi. Chúng tôi càng cảm nhận và trân quý những vần thơ của Tố Hữu: “…Nếu được làm hạt giống để mùa sau/ Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ Vui gì hơn làm người lính đi đầu/Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa!...”. Nơi đây, giữa mưa bom bão đạn, chúng tôi ngày đêm kiên cường giữ chốt, không cho quân thù lấn tới.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng tôi- những chiến sĩ may mắn còn sống qua “mưa bom bão đạn”, nhiều anh em trở về địa phương tay cày tay cuốc xây dựng quê hương, một số ít theo đường binh nghiệp cho đến khi về nghỉ hưu. Chiến tranh đã lùi xa, mùa thu năm ấy chúng tôi lên đường cách đây đã tròn 50 năm, nhưng âm hưởng, khí thế ra trận hào hùng vẫn còn vang vọng mãi, với những ký ức không thể nào quên.

Đại tá NGUYỄN NGỌC HIỆP (nguyên Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 10, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 36, Sư đoàn 308)