Lào Cai (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc) ở thế "núi liền núi, sông liền sông”, chung đoạn sông Hồng hơn 60km. Từ địa thế đó, hai tỉnh đã tạo nên mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với hiệu quả cao và thiết thực trong quá trình phát triển trong hơn một thập kỷ qua.
Kết quả đó dựa trên cách nghĩ và cách làm mới từ quyết tâm của lãnh đạo cấp cao hai nước và cấp ủy, chính quyền, quân dân hai địa phương.
Kỳ I: Hiện thực hóa quyết tâm chính trị
Những ngày cuối tháng 10, đầu tháng 11 năm nay, tôi lại có mặt ở Lào Cai. Trên tuyến biên giới, ở cả khu vực đường biên và nội địa, các hoạt động giao lưu kinh tế nhộn nhịp, với thái độ cởi mở, tin cậy giữa các cấp lãnh đạo, doanh nhân và bà con hai địa phương. Có thể nhận thấy quyết tâm chính trị của lãnh đạo cấp cao hai nước về xây dựng đường biên giới Việt - Trung hòa bình, hữu nghị và hợp tác, theo tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” đang dần trở thành hiện thực.
Từ minh bạch và ổn định đường biên, mốc giới
 |
|
Học sinh Trường Trung học cơ sở Mường Khương trong phong trào "Em yêu cột mốc quê em”.
|
Theo các đồng chí ở Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Lào Cao thì đường biên giới do hai tỉnh quản lý có gần 2/3 là theo sông suối và 1/3 là đất liền. Lần giở lại Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1895 thì đoạn này có 22 cột mốc, toàn bộ trên biên giới đất liền. Cho đến năm 2002, chỉ còn 7 cột mốc tương đối nguyên vẹn, tranh chấp khi phân giới cắm mốc cũng nảy sinh ở đoạn biên giới đất liền, đều ở huyện Mường Khương.
Tôi đến các điểm từng có tranh chấp này, đó là 4 điểm: Điểm 51C (khu vực mốc 1 cũ) xã Bản Lầu; điểm 52C (khu vực mốc 2,3 cũ) xã Nậm Chảy; điểm 55C (khu vực mốc 18, 19 cũ) và điểm 58C (khu vực mốc 22 cũ) xã Pha Long. Nghe kể chuyện cũ như vậy, còn nay những nơi này các cột mốc mới sừng sững từ gần hai năm qua, định rõ đường biên. Như vậy là cùng với giải quyết tranh chấp đó thì toàn bộ đường biên được hai bên phân giới, cắm 128 vị trí mốc gồm 124 mốc chính, 4 mốc phụ ở lãnh thổ hai nước và trên biên giới. Công tác phân giới, cắm mốc ở đây hoàn thành vào tháng 12-2007, trước cả nước một năm, cũng đứng đầu về chất lượng và hiệu quả.
Định rõ đường biên, cột mốc là một kết quả đáng mừng nhưng phát huy thành quả đó lại đòi hỏi sự tham gia của toàn dân. Cán bộ, chiến sĩ biên phòng và chính quyền các xã dọc tuyến Mường Khương mà tôi đến, đều cho biết: Sau phân giới, cắm mốc, biên giới rõ ràng, các chốt quân sự của bạn không còn chiếm giữ đường biên. Hầu như không còn tình trạng xâm canh, trộm cắp khoáng sản, lâm sản, chăn thả gia súc, chôn mồ mả sang đất ta nữa. Có hiện tượng nào xuất hiện cũng được hai bên giải quyết một cách thuận lợi.
Còn trên toàn tuyến, thì các báo cáo của tỉnh khẳng định: Hơn một năm qua, những vi phạm đường biên, mốc giới vẫn còn xảy ra, như vượt biên trái phép, dùng xung điện bắt cá trên sông, xâm canh vào khu vực bảo vệ cột mốc, đường biên, làm sứt mẻ cột mốc, xây dựng công trình đổ đất đá ra sông... Nguyên nhân chính là do thói quen của những người dân hai bên khi đi làm nương rẫy không chú ý, trẻ chăn trâu nghịch ngợm, có cả doanh nghiệp thi công công trình sơ ý… Nhưng nói chung mọi việc đều được giải quyết gọn ghẽ, khắc phục hậu quả kịp thời. Đường biên, mốc giới minh bạch, rõ ràng, tạo thuận lợi cơ bản trong tuần tra bảo vệ biên giới, bà con hai nước ý thức được chủ quyền lãnh thổ một cách cụ thể, hạn chế các vi phạm không đáng có. Cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân tin tưởng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phối hợp tốt với bộ đội biên phòng và các lực lượng khác trong bảo vệ biên giới, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đời sống nhân dân ổn định, góp phần phát triển kinh tế-xã hội.
- Bí quyết của thành công đó là hai bên giải quyết mọi việc ngay tại thực địa. Cùng nhau tới nơi có vướng mắc, xem xét kỹ lịch sử vấn đề, nguồn gốc phát sinh, diễn biến lâu nay rồi bàn với nhau để thống nhất, báo cáo lên cấp trên quyết định-Đại tá Nguyễn Thành Đông, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh cho biết, và nhấn mạnh: Bí quyết này được dùng cả suốt trong và sau phân giới, cắm mốc, giải quyết nhanh, triệt để những vấn đề nảy sinh.
Khi biên giới ổn định thì nhiều việc trở nên đơn giản hơn trước, nhất là đối với nâng cao quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai địa phương.
Đến hợp tác toàn diện
 |
|
Cửa khẩu quốc tế Lào Cai tạo cầu nối trong giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai nước.
|
Còn nhớ, vào tháng 5-2007, trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có cuộc hội đàm với Tổng bí thư-Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào, nhất trí tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về truyền thống hữu nghị Việt - Trung; triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa các ngành, các địa phương và đoàn thể quần chúng, để tình hữu nghị lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, mãi mãi là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". Giao trách nhiệm cho các ngành hữu quan phát triển lành mạnh quan hệ thương mại song phương, nhanh chóng triển khai thực hiện kế hoạch hợp tác "Hai hành lang, một vành đai kinh tế"… Còn khi ở Vân Nam, được hội kiến xã giao với Chủ tịch nước ta, ông Bạch Ân Bồi, Bí thư Tỉnh ủy Vân Nam bày tỏ mong muốn tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác không chỉ trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật, y tế, nông nghiệp, du lịch...
Trong các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc đó, bạn nói nhiều đến Chiến lược "hưng biên phú dân”, với nội dung phát triển vùng biên, làm giàu cho dân cư biên giới và hòa thuận với láng giềng. Đồng thời một chiến lược nữa được coi là nhiệm vụ trọng điểm trong thế kỷ 21 là Đại khai phát miền Tây, trong đó có tỉnh Vân Nam.
Chính trong bối cảnh đó, từ cấp độ hai nhà nước đến hai tỉnh, đã có sự hợp tác trên hầu khắp các lĩnh vực. Mặc dù cũng có biên giới với các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, nhưng tỉnh Vân Nam và tỉnh Lào Cai có quan hệ và hợp tác sớm, đầy đủ và hiệu quả cao nhất.
Những ngày đầu tháng 11, trong khuôn khổ Hội chợ thương mại-du lịch Việt-Trung 2009 (Lào Cai), một đoàn cán bộ các cấp của tỉnh Vân Nam, châu Hồng Hà, huyện Hà Khẩu tới thành phố Lào Cai. Các cuộc hội đàm, tham quan diễn ra trong không khí thân tình, trang trọng và thiết thực. Các ban, ngành của tỉnh, nhất là Sở Ngoại vụ bận rộn, huy động hầu hết cán bộ, nhân viên vào cuộc. Thế nhưng đồng chí Nguyễn Văn Thực, Giám đốc Sở Ngoại vụ vẫn dành được thời gian tiếp tôi. Chúng tôi có cuộc trao đổi khá lý thú dù thời gian không dài. Mở đầu, anh nói:
- Đồng chí Bùi Quang Vinh, Bí thư Tỉnh ủy của chúng tôi vừa có chuyến thăm tỉnh Vân Nam và ký với Bí thư Bạch Ân Bồi biên bản hợp tác toàn diện giữa hai tỉnh. Đây có thể coi là văn bản có tính pháp lý cao nhất định hướng hợp tác trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trước đó, qua các năm đã có những biên bản hợp tác theo các cấp, ngành và lĩnh vực khác nhau.
- Có thể kể những mốc chính của các thỏa thuận đó thế nào?
- Ngay sau khi tái lập tỉnh, lãnh đạo Lào Cai và Vân Nam đã qua lại thăm và ký biên bản khung về hợp tác giữa hai tỉnh. Trong đó có việc định kỳ gặp gỡ luân phiên, lãnh đạo tỉnh và các ban ngành gặp nhau hằng năm, có ban ngành 6 tháng, cả các ban Đảng, cấp chính quyền, quốc phòng, an ninh… Các cuộc gặp nhằm trao đổi tình hình và công tác thường xuyên, kết quả thực hiện nội dung biên bản hợp tác mà hai bên đã ký kết.
- Việc triển khai kế hoạch hợp tác "Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt-Trung” được thực hiện ra sao?
- Trên cơ sở thỏa thuận giữa hai nước, từ năm 2004 đến nay, 5 tỉnh, thành phố dọc hành lang kinh tế này là Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và tỉnh Vân Nam của bạn đã duy trì hội nghị hợp tác kinh tế luân phiên hằng năm. Đây là hội nghị đánh giá kết quả đã đạt được, ký kết các nội dung hợp tác song phương, đa phương mới nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế.
- Còn riêng Lào Cai và bạn?
- Năm 2005 tỉnh Lào Cai và châu Hồng Hà thuộc tỉnh Vân Nam đã xây dựng và ký văn bản hợp tác thực hiện Đề án Khu hợp tác kinh tế Lào Cai-Hồng Hà, hạt nhân là khu thương mại Kim Thành của ta và khu Bắc Sơn của bạn. Cũng năm đó, thành phố Lào Cai và huyện Hà Khẩu tổ chức kết nghĩa giữa hai địa phương.
Anh kể cho tôi một số kết quả hợp tác trên lĩnh vực xã hội. Đó là hằng năm có nhiều hình thức đưa học sinh ta sang đào tạo tại Học viện Hồng Hà, Đại học Vân Nam. Từ năm 2007, hợp tác đào tạo mở rộng ra nhiều tỉnh phía bắc của ta. Tỉnh đã thành lập Trung tâm Hán ngữ, hoạt động có hiệu quả, thu hút cán bộ và nhân dân học tập. Trong lĩnh vực văn hóa, luân phiên tổ chức hội thảo "Giao lưu kinh tế-văn hóa lưu vực sông Hồng trong lịch sử, hiện tại và tương lai”. Từ năm 2004 đến nay, tỉnh mời 4 đoàn nghệ thuật của bạn sang biểu diễn 18 buổi, ta tổ chức 12 chuyến đi Vân Nam với 22 buổi biểu diễn văn nghệ. Hội báo xuân hằng năm của Lào Cai có mời các cơ quan báo chí bạn sang dự. Hợp tác xây dựng bộ phim tài liệu "Nơi ngọn nguồn con sông Hồng” giới thiệu nền văn hóa và tình hữu nghị hai nước. Nhiều hoạt động trên lĩnh vực y tế đem lại kết quả tích cực, như tổ chức các đoàn thầy thuốc trao đổi, học tập kinh nghiệm, khám chữa bệnh cho nhân dân; thông báo tình hình dịch bệnh, kiểm dịch biên giới; xây dựng Bệnh viện liên doanh hữu nghị Hồng Hà 500 giường tại Lào Cai…
Những lĩnh vực hợp tác đó tuy mới là bước đầu nhưng đã hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống- anh Thực nhận xét như vậy.
Bài và ảnh: VIỆT ÂN
Kỳ II: “Biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự”