Kỳ III- Dân tự giải quyết vướng mắc nảy sinh

Sự kiến tạo tự nhiên và vận động xã hội đã hình thành mối quan hệ với những nét riêng giữa Vân Nam và Lào Cai. Đi dọc biên giới, gặp gỡ nhiều người dân tôi hiểu rằng nhiều dân tộc anh em, có những dân tộc nơi khác di cư đến từ nhiều thế kỷ ở bên này hoặc bên kia đường biên, người dân có quan hệ dân tộc, dòng tộc gắn bó, thường qua lại thăm nhau. Nhiều bản làng nửa bên này, nửa bên kia…Thực trạng đó có thể nảy sinh sự phức tạp nhưng cũng tạo thuận lợi trong bảo vệ an ninh vùng biên. Chính vì vậy, ngoại giao nhân dân trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị được triển khai rộng khắp.

Dân tộc, dòng tộc, thôn bản cùng bảo vệ đường biên, mốc giới

Ông Ma Hồng Phủ (người đứng giữa) trao đổi công việc với cán bộ Đồn Biên phòng Mường Khương.

Mỗi tấc đất biên giới, mỗi cột mốc đều có người dân tham gia quản lí, bảo vệ-đó là quyết tâm của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc Lào Cai. Lâu nay công việc này đã được triển khai theo quy mô và phương thức khác nhau, nhất là sau khi phân giới, cắm mốc. Tất cả các dân tộc, dòng tộc, thôn bản vùng biên giới đều tham gia, như bảo vệ đất và nhà của mình.

Điều đó được thực hiện trước hết là công tác vận động quần chúng nâng cao nhận thức và thực sự tham gia bảo vệ biên giới- Thượng tá Trịnh Quang Trung, Phó chủ nhiệm Chính trị Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh khẳng định như vậy. Theo anh thì trong 383 thôn bản, 26 xã, phường, 5 huyện, thành phố vùng biên giới đều triển khai đều khắp công tác này. Trách nhiệm của từng cấp, từng cán bộ và người dân cùng sự phối hợp, hiệp đồng được xác định rõ, văn bản hóa và vận hành trong thực tiễn. Các đồn biên phòng  làm lực lượng nòng cốt trong phong trào. Cùng với các chuyên đề giáo dục, tuyên truyền về bảo vệ đường biên, cột mốc, nhiều nơi phát động phong trào “Em yêu cột mốc quê em” trong học sinh.

Trên suốt dọc tuyến biên giới, từng xã, phường, thôn, bản quản lí đoạn đường biên và cột mốc theo địa phận của mình. Trong đó, mỗi đoạn tuyến được giao cho các tổ tự quản đường biên, cột mốc, mỗi tổ gồm một số gia đình, nhiều ít tùy điều kiện cụ thể. Mỗi hộ gia đình trong tổ được giao quản lí diện tích cụ thể, thường là gắn với nương rẫy, ruộng của họ. Tổ trưởng có thể là trưởng thôn, già làng hoặc người có uy tín. Từng hộ gia đình cam kết, tổ trưởng thay mặt tổ cam kết với chính quyền và đồn biên phòng. Trong hương ước thôn bản, quy ước dòng họ cũng định rõ trách nhiệm của các thành viên trong bảo vệ biên giới. Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai cũng rất quan tâm đến công việc này, đã có quyết định hỗ trợ bà con về kinh phí (dù không phải là lớn) khi tham gia công việc này. Điều đó có tác động tốt nhưng cái chính là bản thân bà con các dân tộc vùng biên nhận rõ trách nhiệm và sự cần thiết tham gia bảo vệ biên giới  cũng là giữ bình yên cuộc sống của mình.

Ở xã Mường Khương, tôi xem kỹ văn bản cam kết của 6 tổ tự quản đường biên, cột mốc với các tổ trưởng 6 thôn là: Lồ Sào Lìn, thôn Dê Chúa Thàng;  Ma Hồng Phủ, thôn Choán Ván;  Pờ Diu Mìn, thôn Chống Chải B;  Giàng Chẩn Sèng, thôn Tung Chun Phố; Ly Diu Mìn, thôn Séo Tủng; Giàng Cồ Mìn, thôn Cán Hồ A. Mỗi tổ có số tổ viên khác nhau, ký cam kết với nội dung 4 điểm như sau: 1- Hằng tuần phân công nhau tuần tra dọc biên giới, kiểm tra hệ thống đường biên, cột mốc. 2- Ngăn chặn những hành động xâm lấn đất đai, làm hư hại cột mốc, khai thác tài nguyên trái phép (chặt phá rừng, khai thác trộm khoáng sản), vượt biên trái phép, chăn thả gia súc qua biên giới và các hoạt động khác có liên quan đến bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới. 3- Thường xuyên trao đổi tình hình hệ thống đường biên, cột mốc và báo tin ngay những hoạt động trái phép cho đồn biên phòng và Ủy ban nhân dân xã. 4- Vận động nhân dân cùng tham gia bảo vệ biên giới.

Ở cả tuyến biên giới, các tổ tự quản đường biên, cột mốc cũng có cam kết tương tự. Nhưng trong thực tiễn, họ còn trực tiếp trao đổi với những người dân bên kia biên giới khi có việc cần bàn và giải quyết với nhau. Bởi vì nhiều vướng mắc nảy sinh chỉ cần họ trao đổi, bàn bạc sẽ được giải quyết một cách nhẹ nhàng, êm thấm, có lí có tình, không cần phải “đao to, búa lớn” như trước đây. Một trong những chuyện đó xảy ra  ở tổ của thôn Choán Ván, mà tổ trưởng là ông Ma Hồng Phủ đã nhắc ở trên.

Câu chuyện đền bù giống cây thảo quả

Bà con thôn Ngài Chồ, xã Sèo Thầu, huyện Hà Khẩu, tỉnh Vân Nam nhận tiền đền bù cây giống thảo quả năm 2006. Ảnh tư liệu.

Ông Ma Hồng Phủ nay đã 61 tuổi, dân tộc Mông, dáng người nhỏ bé, nhanh nhẹn, linh lợi so với tuổi của mình. Ông kể: Năm 1989, gia đình tôi cùng 12 hộ dân từ xã Tả Ngải Chồ tới đây theo kế hoạch ổn định dân cư của huyện. Được ra sát đường biên nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn, nhà tạm bợ, đất canh tác không có. Tôi cùng nhân dân khai phá những mảnh đất gần nhà trồng cây ngắn ngày để có cái ăn, làm ruộng nương, xây dựng thôn bản, ổn định đời sống dần. Từ năm 1992, được sự hướng dẫn của Đồn Biên phòng Mường Khương, bà con trong thôn tham gia bảo vệ biên giới. Cũng từ đó, có hai chuyện liên quan đến cây thảo quả mà ông và bà con trong thôn đã giải quyết.

Chuyện thứ nhất xảy ra vào năm 1995. Khi tuần tra nhận thấy ở khu vực mốc 7 và 8 cũ (mốc 137 và 137 phụ hiện nay), dân Trung Quốc trồng quá canh sang đất ta khoảng 0,2ha thảo quả (chừng 50 ngàn khóm). Ở đó là rừng già, khó nhận biết nên diện tích này đã có quả, nghĩa là đã được trồng 6-7 năm rồi. Ông và bà con trong thôn bàn nhau, nếu không khéo thì có thể xảy ra mâu thuẫn lớn, dù là vi phạm nhưng họ cũng đã bỏ tiền của ra, đến đường cùng mà họ phá nương thảo quả thì dễ thành thù hận lâu dài. Thế rồi mọi người thống nhất là ông, với vai trò trưởng thôn sang gặp các chủ của nương thảo quả này, cứ theo các buổi chợ, có tháng sang 2 lần. Đó là thôn Ngài Chồ, xã Sèo Thầu, huyện Hà Khẩu. Khi sang ông thường mua quà tặng người già và trẻ con. Cũng dựa vào trưởng thôn của bạn là ông Ly Phà Ngán, người Dao giúp thêm. Ông tổ chức bữa cơm mời các hộ gia đình đến. Lúc đầu họ chẳng nói năng gì, ông phải nói rõ như thế là vi phạm đường biên, lẽ ra phải để chính quyền đứng ra tịch thu và phạt, như thế cũng không hay gì. Nay dân giải quyết với dân, thế là thuận lợi cho cả hai bên. Đi lại, thuyết phục mãi rồi họ cũng chấp nhận trả lại diện tích thảo quả đó cho dân ta, chỉ nhận tiền cây giống. Diện tích này được giao có thời hạn cho một hộ dân trong thôn, sau đó do không nắm được kỹ thuật, lại giao cho ông quản lí. Từ đó, giống thảo quả ở diện tích này đã được nhân rộng trong thôn, tạo thành nghề mới trồng thảo quả, là một cây xóa đói nghèo, nay diện tích đã lên đến 26ha, với 22 hộ tham gia trồng.

Ân tình hai trưởng thôn với nhau là thế nhưng khi phát hiện ra một ngôi mộ đặt trên đất của ta, là mộ của bố trưởng thôn bạn, ông liền cùng hai người dân tộc Dao sang gặp ngay. Đó là vào năm 1997, ngôi mộ được đặt trước đó 2 năm. Ông trưởng thôn bạn lúc đầu cũng khá căng thẳng, vì khi đặt mộ không rõ đường biên, cứ thấy rừng già thì đưa vào. Lâu dần cũng nhận ra rằng chuyển mộ về là cách tốt nhất cả trước mắt và lâu dài, nên ngôi mộ đó đã được di chuyển. Ngày chuyển mộ cũng khá công phu và vất vả song tình cảm hai trưởng thôn không vì thế mà mất đi. Bởi vì đó là việc làm đúng và khi đã quen nhau thì không bỏ được nhau-ông Phủ khẳng định như vậy.

Chuyện thứ hai xảy ra vào năm 2006. Số là sau khi phân giới, cắm mốc, từ mốc 136 đến mốc 138 trên diện tích quy về Việt Nam có 90 nghìn khóm thảo quả của dân Trung Quốc trồng trước đó. Lại một lần nữa ông và một số người lại sang gặp dân của bạn. Vẫn bằng cách vận động tương tự, nhưng lần này diện tích lớn, của nhiều chủ là người dân tộc Mông và Dao, không chỉ ở thôn Ngài Chồ mà còn cả ở thôn Pù Chù Sỉn. Khi trồng thì họ trồng trên đất của họ, sau phân giới, cắm mốc mới thuộc về ta, nên phải làm cho họ hiểu rõ cách xử lí có lí, có tình. Kiên trì vận động, sau mấy tháng trời, các hộ dân bạn đồng ý giao lại diện tích thảo quả đó cho các hộ dân của ta và nhận tiền hỗ trợ giống cây. Tiền thì bà con ta vay từ nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo. Diện tích này được giao cho một số hộ gia đình trong 3 năm, trả lại tiền đã vay cho nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo rồi căn cứ tình hình trong thôn sẽ điều hòa lại.

- Khi các hộ của bạn nhận tiền và giao lại nương thảo quả, chúng tôi mới thở phào, nhẹ cả người. Bởi vì từ nay họ sẽ không vào khu vực đó nữa nên bảo vệ được chủ quyền biên giới của mình - ông Ma Hồng Phủ nói.

Cũng có thể thấy rõ việc làm đó đã góp phần bảo vệ tài nguyên. Thảo quả chỉ sinh trưởng và phát triển dưới tán rừng, rừng và đất rừng thì sau phân giới cắm mốc là thuộc chủ quyền của ta. Nhưng người chủ tiếp tục sử dụng nương thảo quả một thời gian khi chưa ký nghị định thư giữa hai bên và họ có thể phá bỏ thảo quả. Nay thảo quả vẫn được giữ gìn, bà con ta tiếp tục chăm sóc, thu hoạch. Điều quan trọng hơn là giữ gìn đoàn kết nhân dân hai bên biên giới. Về việc này ông Ma Hồng Phủ nói:

- Chúng tôi giao nhận tiền và diện tích cây thảo quả cho nhau có thỏa thuận, biên bản ký nhận đàng hoàng, bảo đảm tính pháp lí. Từ đó dân hai bên biên giới chăm sóc diện tích thảo quả trên phần đất của mình, cùng bảo vệ đường biên, mốc giới, vui vẻ chia nhau nắm cơm, điếu thuốc khi gặp lại nhau.

Từ một việc có thể gây mâu thuẫn, dẫn đến các phản ứng tiêu cực, mất đoàn kết giữa nhân dân hai bên, song nhờ cách giải quyết đúng lí, hợp tình mà bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới trong không khí hòa bình, hữu nghị như vậy.
 

Bài và ảnh: VIỆT ÂN

Kỳ IV-Đa dạng hóa hợp tác kinh tế cửa khẩu

Mô hình hợp tác phát triển giữa Lào Cai (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc) (kỳ 2)
Mô hình hợp tác phát triển giữa Lào Cai (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc) (kỳ 1)