Kỳ 7: Những gương mặt đời thường

“Những cánh chim đặc công đầu đàn ngày ấy, nay ở đâu?”. Trăm người cựu chiến binh 200c khi tôi hỏi đều trả lời như một: “Ở trong lòng đất, ở lại rừng sâu”. Họ tự nhận mình không phải là những người tiêu biểu. Song tôi vẫn nhận ra cái chất đặc công từ một vài phác thảo, một vài con người tôi đã gặp. Bình thường thôi mà sao không bình thường…

Người lính nhỏ tuổi nhất tiểu đoàn

- Cháu chào chú! Chú mới vô ạ? Thím và các em có khỏe không? 

Người phụ nữ xinh đẹp, dáng vẻ nhanh nhẹn và đôi mắt sắc sảo chạy lại phía ông Phạm Văn Hợp, nguyên Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 200c, nắm cánh tay còn lại của ông, ân cần hỏi han. Quán cà phê Lang Bian đối diện Hồ Xuân Hương sáng chủ nhật đông nghẹt khách. Nhiều người ở bàn khác nhận ra chị, chạy lại bắt tay, chào hỏi. Chị là Hoàng Thị Thu Hồng, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

Chị Hoàng Thị Thu Hồng - người lính nhỏ nhất tiểu đoàn năm xưa.

Ở Đà Lạt, không nhiều người biết chị từng là chiến sĩ Tiểu đoàn đặc công 200c những năm đánh Mỹ. Hơn thế, lại là “chiến sĩ nhí” nhỏ tuổi nhất, đứa em, đứa cháu cưng của tiểu đoàn đặc công huyền thoại…

Một ngày cuối năm 1969, tại khu rừng vắng vẻ ở huyện Lạc Dương (Lâm Đồng), gần sông Đa Nhim, Ban chỉ huy tiểu đoàn 200c đang chỉ đạo lau chùi vũ khí trang bị thì chiến sĩ liên lạc báo tin, có khách từ Đà Lạt tới. Khách, không ai xa lạ, bà Tám, Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh Lâm Đồng:

- Trời! Chị Tám! Cớ sao hôm nay có chuyện chi mà “rồng” lại tới thăm “tôm” là tiểu đoàn đặc công nghèo khó này? Tiểu đoàn trưởng Bổng chạy ra đón, tươi cười bông đùa.

- Ờ! Ờ! Ghé thăm mấy anh và có quà “hối lộ” để nhờ một việc quan trọng đây…- Bà trỏ tay vào cô bé bên cạnh, đang sợ sệt nép vào áo mẹ - Con nhỏ nhà tui đây, 15 tuổi rồi. Tui gửi nhờ các chú…

Cô bé ấy là Thu Hồng, lúc đó 15 tuổi nhưng nhỏ bé như đứa trẻ 11, 12 tuổi. Bố Hồng quê ở Hà Tĩnh, là bộ đội Nam tiến vào chiến đấu rồi lấy mẹ Hồng – bà Tám ở Đà Lạt. Họ sẽ mãi là một gia đình hạnh phúc với 4 người con, hai trai, hai gái nếu không có chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” dã man của Ngô Đình Diệm. Ba bị chém đầu khi Hồng mới vài tuổi. Bà mẹ một nách bốn đứa con. May mà có tổ chức, khi 3 anh chị Hồng lớn lên đi học, 2 anh được gửi ra Bắc học đại học, chị lớn là cán bộ thành Đoàn. Gửi con vào một tiểu đoàn đánh nhau liên miên, bà mẹ cũng lo lắng lắm. Nhưng bà cũng bận công tác trong lòng địch, đâu ít hiểm nguy. Hơn nữa, trong sâu thẳm lòng mình, bà muốn đứa con gái út yếu đuối được trải nghiệm môi trường đánh giặc, để nó lớn khôn hơn, mạnh mẽ hơn, tiếp bước con đường trả thù cho cha…

Thế là Hồng trở thành người lính nhỏ tuổi nhất tiểu đoàn. Công việc của em là làm liên lạc, giúp việc cho Ban chỉ huy. Cô bé cũng học mười lời thề, cũng tập bắn súng, truyền tin, phục vụ chiến đấu. Chiến tranh, việc học hành dở dang nhưng vào 200c, các chú, các anh không chỉ dạy cô thành người lính mà còn cử hẳn hai chiến sĩ liên lạc tiểu đoàn, tranh thủ kèm cặp, dạy Hồng học văn hóa. Học trong rừng sâu, thế mà Hồng tiến bộ rất nhanh. Cũng đã mấy lần, cô nằng nặc đòi các chú cho đi đánh đồn nhưng bị các chú nạt: “Trẻ con, chưa đến tuổi!”. Cô cự nự: “Thế mấy anh trinh sát, hơn con có 3-4 tuổi, sao đánh hết trận nọ, trận kia?”.

Cuộc chiến ngày càng ác liệt, tiểu đoàn cơ động như con thoi giữa Lâm Đồng, Tuyên Đức, Bình Thuận. Rồi cũng đến ngày phải chia tay 200c để Hồng về hoạt động ở thành Đoàn. Đó là ngày tiểu đoàn rút về Bình Thuận. Hôm ấy, Hồng khóc nức nở đòi chạy theo đơn vị. Mẹ phải đuổi theo giữ cô lại…

Hòa bình. Với vốn kiến thức được các anh đặc công truyền dạy nơi chiến trường, Hồng ôn thi hoàn thiện văn hóa, rồi học Đại học Kinh tế, qua nhiều cương vị công tác, giờ cô là Phó chủ tịch thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng. Trong cô, quãng thời gian làm người lính “nhí” mãi là những tháng năm đẹp nhất…

Người “nhớ rừng” và  Safari đầu tiên ở Việt Nam

Chiều Thành phố Hồ Chí Minh kẹt xe đến nghẹt thở, anh Trần Chí Công bình thản ngồi trong xe, mở đọc một đoạn trong hồi ức của Thượng tướng Nguyễn Hữu An. Tủ làm việc của anh, bên chồng dự án là những cuốn sách, đa số là hồi ký về một thời lửa đạn không thể nào quên. Thấy anh cặm cụi với những trang sách mà sao mắt chợt đỏ hoe, tôi hỏi: “Anh bị sao vậy?”. Anh thoáng giật mình bối rối: “À, à… Bụi bay vào mắt”. Xe Lexus mà có bụi sao được, nghe giọng anh lạc đi, tôi hiểu quá khứ đang dội về trong anh, người lính dày dạn thương trường nhưng vẫn nặng lòng với đồng đội…

Anh Trần Chí Công (người đứng) và đồng đội.

Năm 1969, đang học trường trung cấp kỹ thuật ở Thái Nguyên, anh được tuyển vào bộ đội đặc công. Lính sinh viên, thông minh và lanh lẹn, anh là một tay trinh sát giỏi. Đánh chi khu Đơn Dương, anh ở tổ thọc sâu, từng được giao cầm cờ giải phóng để cắm lên cứ điểm mà không… dính đạn. Suốt năm 1970, anh liên tiếp được giao đi điều nghiên chiến trường, trinh sát cứ điểm, thị trấn. Có lần, khi đi trinh sát lập bản đồ một thị trấn, anh đã lọt vào đúng nhà ở bọn ác ôn, chẳng những khéo léo thoát được mà anh còn bắt được thằng ác ôn Lê Gia, kẻ đã chỉ điểm hầm trú ẩn của Tỉnh ủy Quảng Đà làm cho nhiều đồng chí bị bắt. Một lần trinh sát về gặp đoàn công tác của ta bị phục kích, anh đã khéo léo thu hút địch, phá vây, cứu nguyên vẹn đoàn công tác khoảng 40 người cùng với mình thoát hiểm, rồi lại đưa  họ về căn cứ an toàn.

Sau thời gian làm việc tại các cơ quan hành pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh, anh xin nghỉ việc, mở công ty tư nhân, đã làm được vài dự án nhà giá rẻ cho giáo viên, người nghèo. Bỗng một ngày, cậu con trai anh đang tuổi sinh viên, sau giờ học xin phép ba đi chơi. Hỏi đi đâu: “Dạ! Vô quán cà phê!”. Rồi đi đâu nữa: “Dạ! Vô chơi điện tử!”. Rồi đi đâu nữa: “Về nhà!”. Anh chợt giật mình, lớp trẻ thiếu sân chơi, thiếu hiểu biết về thiên nhiên nhiều quá. Ở nước ngoài, bọn trẻ có thể vào rừng ngắm thú, cắm trại và bàn thảo về môi trường. Anh bỗng thấy nhớ rừng. Nhớ những khoảng rừng nguyên sinh trong chiến tranh. Hòa bình rồi, sao rừng bị tàn phá nhiều quá? Mình có cách gì giữ được không? Anh đã đi nước ngoài, đã biết những Safari – vườn thú hoang dã rộng lớn. Ý tưởng ấy lóe lên…

Tại một hội thảo quốc tế về môi trường tổ chức ở Cần Thơ, anh đã nêu lên ý tưởng đó với đoàn doanh nghiệp Đan Mạch, nơi người ta đã có kinh nghiệm làm Safari. Ý tưởng lớn gặp nhau, ông Mark Blix, giám đốc Gaia Design Denmark, người đã kiến trúc các vườn thú và công viên lớn ở Đan Mạch và Safari ở Thụy Điển cùng với ông Richard Osterballe, Chủ tịch Hiệp hội vườn thú châu Âu đã tới gặp anh. Họ cùng anh lặn lội suốt một tuần ở Bà Rịa - Vũng Tàu, tìm hiểu khu vực Bình Châu, Hồ Cốc mà anh phát hiện, đề xuất. Một dự án Safari Bình Châu từ những nỗ lực của anh sau đó đã ra đời với tổng đầu tư 500 triệu USD. Mùa hè năm 2008, dự án được UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trình lên Thủ tướng. Thật bất ngờ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rất quan tâm tới dự án này, đã chấp thuận chủ trương chỉ trong vòng 20 ngày, có văn bản chấp thuận dự án. Thế là anh đã dần hiện thực hóa ước mơ, có được một dự án vườn thú Safari và khu du lịch nghỉ dưỡng Bình Châu rộng tới 535ha, chỉ cách Vũng Tàu 40km. Ít ai biết phía sau thành công, đã từng có tới 14 hội thảo ở cả ta và Đan Mạch. Có một lần dự án gặp khó khăn khi đàm phán với đối tác đầu tư không thành. Ở một khu rừng bờ biển nước bạn, anh đã khấn một cách tự nhiên thốt ra: “Tụi bay ơi, phù hộ cho tao thành công, cho đất nước này, như tụi mình ước mơ hồi ấy”. Thế rồi, anh thành công thật!

“Thiếu tá trị giá bạc tỷ” bây giờ

Trong ngôi nhà nhỏ tĩnh lặng ở ngoại ô thành phố Phan Thiết, ông Nguyễn Văn Bổng, người tiểu đoàn trưởng 200c đầu tiên đã bước vào tuổi 82, tóc trắng như cước, tay run run vì chứng bệnh Pa-kin-sơn. Ông đã nghỉ hưu với quân hàm đại tá, từng giữ chức Phó tham mưu trưởng tỉnh đội Bình Thuận. Người lính đặc công thuộc lứa “gạo cội” này từng là hạt giống đỏ sĩ quan pháo binh học ở Trung Quốc, tốt nghiệp năm 1953 về nước tham gia ngay chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi học trường Quân sự Hoàng Phố, rồi trở thành giảng viên Trường Sĩ quan Pháo binh. Lối rẽ cuộc đời chợt đến khi ông được chọn sang Binh chủng Đặc công, đi một mạch vào Nam để lại người vợ trẻ cùng hai cậu con trai ở ngoài phố Hàng Lược (Hà Nội). Người giảng viên trẻ xếp bút nghiên ấy khi vào chiến trường Khu 6 đã nhanh chóng trở thành một chỉ huy đầy bản lĩnh. Mới mang hàm thượng úy, nhưng anh đã chỉ huy hàng trăm trận thắng lẫy lừng. Kẻ thù khiếp vía, chẳng biết anh cấp bậc gì, “phiên” bừa anh là… thiếu tá. Tỉnh trưởng Đà Lạt Đỗ Quốc Danh đã cho rải truyền đơn, treo giải cho ai bắt được “thiếu tá Bổng” sẽ được thưởng mấy trăm ngàn đồng, tương đương tiền… tỷ bây giờ! Năm 1972, ông nhận nhiệm vụ Trưởng ban đặc công Quân khu 6. Năm 1973 là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 482, cũng là một “quả đấm thép” của Quân khu. Sau Đại thắng mùa xuân, vì phải giữ bí mật, ông không được liên lạc với gia đình. Vợ ông, một cô gái phố cổ Hà Nội, một mình nuôi hai con, khi Hà Nội đánh B52, bà gánh 2 đứa con ngồi 2 đầu thúng sơ tán lên Phú Thọ. Ngày chiến thắng, không có tin của chồng, cứ ngỡ ông không về nữa nhưng bà vẫn linh cảm đợi chờ. Năm 1977, dẹp yên FULRO, ông trở về nước, cấp trên đã phải báo dần từng tin một để không gây sốc cho bà.

Đại tá Nguyễn Văn Bổng, người được kẻ thù “đặt giá” bạc tỷ. Ảnh: VĂN MINH.

Ông vẫn đi. Từ Bình Thuận, ông nhờ người đồng đội ra Hà Nội đưa cậu con trai lớn vào. Sau mấy năm nữa, mới tiếp được vợ và đứa con còn lại vào Bình Thuận, hợp lý hóa gia đình. Cậu con lớn của ông, giờ đã là Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Bình Thuận. Ông Bổng về với đời thường, với rất nhiều vết thương trong người, vết thương ở đầu di chứng, làm mờ cả hai mắt. Cái tủ chật kín huân chương, ông không còn phân biệt được hạng gì. Nói về 200c, bây giờ ông vẫn ám ảnh nhất trận Sông Mao. “Hôm ấy, tôi bị thương không ra trận được nhưng thấy anh em không về, tôi cứ ngẩn ngơ đến mấy tháng trời. Thậm chí đến tận bây giờ, vẫn cứ thấy chống chếnh trong lòng” - ông nói khẽ và nhìn ra ngoài cửa sổ, hai dòng lệ ứa ra chảy xuống chòm râu đã bạc…

Những người còn lại

Không nhiều những người thành đạt. Chiến tranh kết thúc, họ về với đời thường, bình dị và thiệt thòi. Như tiểu đoàn phó Phạm Văn Hợp, cánh tay phải của Ban chỉ huy, người luôn chui vào mọi hàng rào lần cuối, người thường tự tay vẽ sơ đồ tham mưu… Sau một trận đánh, ông bị mảnh pháo phang mất cánh tay, chỉ còn chút da dính lủng lẳng. Cậu y tá sợ không dám chặt, ông cầm dao găm tự cắt đứt tay mình, bảo đồng đội mang chôn rồi băng bó, tiếp tục chiến đấu. Sau chiến tranh, ông ra Bắc an dưỡng, mãi mới dám về nhà vì sợ… vợ buồn. Giờ ông sống cuộc sống một lão nông với thu nhập chính là lương thương binh và cây trái từ vườn vải thiều ở Lục Nam (Bắc Giang). Nhưng ông bảo mình vẫn còn may mắn hơn nhiều anh em khác. Đặc công chỉ có đi và đánh, nhiều khi đi chỉ độc quần đùi. Hòa bình về, nhiều người thất lạc giấy tờ, hoặc hồ sơ không đầy đủ, như cậu Thành, cậu Sáng, rõ là thương binh thật đấy nhưng không được công nhận. Ông biết mà đành chịu. Đặc công vẫn là đặc công, đặc biệt ở chỗ luôn đi trước, về sau…

Ký sự của NGUYỄN VĂN MINH

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 6)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 5)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 4)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 3)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 2)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 1)