Kỳ 5: Nuốt nước mắt, chúng con ra trận

Nửa năm sau trận Ma Lâm, kẻ địch hý hửng tưởng 200c đã bị tan nát. Nhưng 200c lại xuất hiện trên chiến trường mới, tiếp tục gây kinh thiên động địa hơn nữa. Chỉ trong vòng 20 ngày, họ đánh hai trận lớn, cùng vào một cứ điểm, diệt hơn 500 tên địch. Một mùa thu đau thương đã trở thành mùa thu chiến công đền ơn Bác…

Nghị quyết chỉ có một chữ: Đánh!

Sau trận Ma Lâm, 200c tạm rút về rừng Sông Ba. Nước mắt không trào ra, mà lặn vào trong. Cơm Bình Thuận, vùng cát, gạo lấy lên ở từng hố cát, mỗi lần nấu cơm phải gạn từng lon. Từ hôm anh em hy sinh, gạo gạn tạm bợ, nhưng lòng không nguôi nhớ bạn. Nhiều cuộc họp cấp  ủy thổn thức, tức tưởi vì nỗi đau khi tiểu đoàn mất 2/3 chỉ huy và chiến sĩ giỏi. Nén thương đau, tiểu đoàn hạ quyết tâm đánh trận mới, lấy lại khí thế. Nhiều tháng, các tổ trinh sát chia nhau đi điều nghiên, đột nhập vào sân bay Phan Thiết và căn cứ Tam Nông. Trinh sát đã kỹ, nhưng khổ nỗi không đủ quân cho mở trận mà địch ngày càng áp đảo, càn quét khắp nơi.

Không đủ đánh lớn thì đánh nhỏ! Tiểu đoàn đưa từng nhóm 5-7 đồng chí, bí mật tiềm nhập đánh thủ pháo, B40 làm chúng kinh sợ. Mùa hè năm 1969, tiểu đoàn được miền Bắc chi viện, bổ sung lứa chiến sĩ mới.

Trường học mọc lên ngay dưới những lô cốt, nhà âm.

Anh Nguyễn Văn Sáng ở phố Nguyễn Sơn, Hà Nội nằm trong lứa chiến sĩ đó nhớ lại: Tới Bình Thuận, anh đã nghe danh tiếng 200c lẫy lừng nhưng sao quân số “lèo tèo” vậy? Đã vài lần, Sáng và đám tân binh dò la hỏi, mấy anh chỉ huy chỉ trả lời chung chung: “Đi công tác hết rồi chứ sao?”.

Sao đám “đàn anh” đi công tác lâu vậy? Hỏi hoài, bữa nọ, một bác “lính cụ” mới bực mình nói thẳng:

- Công tác cóc khô gì? Đánh đồn bị chúng “úp sọt”, hy sinh hết rồi?

Đám tân binh tròn mắt ngạc nhiên. Anh lính cựu tiếp lời luôn: “Đã là đặc công, hy sinh là thường. Nhiệm vụ của tao và tụi mày là phải “oánh” tiếp, trả thù cho chúng nó. Oánh đến người cuối cùng! Thế mới xứng là đặc công!”. “Nhưng bao giờ sẽ “oánh” hả anh?”. “Chưa biết”.

Họ không phải đợi lâu. Mùa hè năm 1969, Bộ tư lệnh quân khu quyết định mở những trận đánh lớn ở cấp chiến dịch lên cao nguyên Lâm Đồng, Tuyên Đức, Đà Lạt.

Mục tiêu mới là tiểu đoàn 3, trung đoàn 53, cũng thuộc sư đoàn 23 Ngụy, lúc đó đang đồn trú tại huyện Di Linh. Nơi chúng đóng quân trên đồi Pát Tơ, một quả đồi cao án ngữ ngay trục giao thông, lại có thế đắc địa tự nhiên khi có bãi sình lầy bán kính 100 mét bao bọc quanh cứ điểm. Di Linh có những đồn điền cà phê, chè trải dài đường số 20, có 2 trận địa pháo, 7 lớp hàng rào, với những lô cốt ngầm, lô cốt cao, tạo các tuyến hỏa lực bắn thẳng, bắn chúc, bắn quét nhiều tầng… Lính tiểu đoàn 3 rất huyênh hoang, thường xuyên càn quét, khủng bố cơ sở cách mạng vì chúng từng cơ động trên chiến trường Tây Nguyên, nhiều lần chạm trán Việt Cộng.

“Đánh!”.

Tư lệnh Nguyễn Trọng Xuyên giáng nắm đấm xuống bàn một cách quyết liệt khi giao nhiệm vụ cho 200c. Nhưng từ Bình Thuận lên Di Linh hàng trăm cây số, chiến trường mới, bộ đội lại toàn mới tinh cả? “Vậy tau cho “tụi bay” thời gian chuẩn bị 2 tháng, đánh cho ngon mừng Quốc khánh 2-9, chịu hông?” - ông vẫn có thói quen thân mật gọi cấp dưới “tau” - “tụi bay” như vậy.

Tháng 6-1969, 2 tổ trinh sát bí mật luồn rừng từ Bình Thuận lên Lâm Đồng, qua nhiều dãy núi cao, khe suối, bò qua các đồi chè, ấp dân làm nhiệm vụ, điều nghiên chi khu Di Linh. Hai tháng trời, họ lấy đêm làm ngày, ém mình trên núi cao, chỉ ăn bánh mì, thịt hộp, không nấu nướng phòng địch phát hiện. Hàng rào, mìn, pháo sáng, chó, ngỗng, lính canh… đều bị vô hiệu hóa. Mọi số liệu lực lượng, phương tiện, bố phòng của địch đã trong tầm tay.

Ngày 1-9-1969, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Bổng dẫn đội quân mình trần luồn rừng từ Bình Thuận lên Di Linh, ém mình tập kết tại Hòn Bồ, cách đồi Pát Tơ vài chục km. Ngày N - nổ súng đã được xác định vào 4-9, sau Quốc khánh 2 ngày.

Kế hoạch đã rõ. Thủ pháo, lựu đạn đã bên mình. Cả tiểu đoàn háo hức chờ lập chiến công.

4 giờ sáng 3-9, Ban chỉ huy tiểu đoàn nhận điện khẩn từ Quân khu: “Dừng trận đánh!”. Cơ yếu dịch mật điện mà đôi tay run rẩy: Bác Hồ mất! Toàn quân khu ngừng bắn một tuần để tang Bác”.

Họ lặng đi giây lát rồi phút chốc, những tiếng nức nở, thổn thức lan đi khắp điểm tập kết. Trời ơi! Bác mất rồi, cách mạng miền Nam sẽ ra sao? Khó ai có thể kể hết nỗi đau đớn tột cùng với những người lính cầm súng ở một chiến trường bộn bề gian khổ như Khu 6 khi nghe tin Bác mất. Một buổi lễ truy điệu được tổ chức ngay trên đường ra trận, giữa khu rừng xa lạ. Bộ đội 200c chặt cây, căng vải làm kỳ đài viếng Bác. Để giữ bí mật đã có lệnh không hô quyết tâm, nhưng lời thề nén vào trong còn nặng sâu hơn.

Một tuần đau đớn, quặn thắt trong rừng sâu.

Cán bộ tiểu đoàn phải đi đến từng võng động viên anh em: “Quy luật muôn đời, Bác nhiều tuổi thì phải ra đi”. “Vậy có đánh nữa không khi cả tiểu đoàn mắt ai cũng đỏ hoe như thế này?”. Một câu hỏi đặt ra khiến Đảng ủy Tiểu đoàn phải họp lại một lần nữa. Với bộ đội đặc công, cần nhất bản lĩnh, sự gan góc, táo bạo. Nỗi đau mất Bác Hồ cả tuần qua khiến anh em suy giảm sức khỏe, tâm lý dao động, liệu yếu lĩnh, động tác chiến đấu còn chuẩn xác không?

Đánh!

Đó là nghị quyết cuối cùng, không thay đổi.

Mỗi phút, diệt hơn 10 tên địch

16 giờ chiều ngày 10-9-1969, cả tiểu đoàn tề tựu bên trái đường 20 làm lễ xuất quân. Đêm mùa thu, trời sụp tối rất nhanh. 20 giờ đêm, họ đã tiềm nhập cách đồi Pát Tơ chỉ còn 500 mét. Tiếng côn trùng não nề xen lẫn tiếng kẻng đổi gác luân phiên. Thi thoảng, một quả pháo sáng vụt lên, soi rõ cả đồi chè lúp xúp.    

- Đù má! Nhiều quá bay ơi! Bắt hết đi!

Tiếng nói ồm ồm xem lẫn tiếng cười sằng sặc. Ánh đèn pin loang loáng làm anh Bổng giật mình. Dùng tín hiệu cho anh em lợi dụng địa hình, địa vật nằm im, Bổng vẫy Hợp lại gần. Lộ chăng? Sao chúng lại nói “bắt tất cả”. Nhưng giọng cười của chúng không mang tính… đe doạ. Họ tiếp tục nằm im, theo dõi. Những bước chân lịch bịch lại gần. Một nhóm dân vệ! Hướng đi của chúng, run rủi nhằm đúng đội hình hành quân?

Phương án xử lý rất nhanh. Bổng dẫn bộ đội tới mục tiêu theo đường tránh. Hợp và ba chiến sĩ ở lại, sẵn sàng bắt sống hoặc tiêu diệt chúng. Tất cả lăm lăm súng trong tay:

- A ha! Lại một con to quá bay ơi! Một tên nói to.

Tất cả thở phào. Thì ra chẳng phải bị lộ gì hết. Đây chỉ là một tụi dân vệ đi … soi ếch mà thôi. May mà chúng đột ngột rẽ hướng khác soi tiếp…

Một góc chi khu Di Linh nay là vùng dân cư sầm uất.

21 giờ. Các hướng mũi đã áp sát hàng rào.

23 giờ 50 phút. Mọi vật cản đã khắc phục xong.

24 giờ. Súng lệnh nổ, các chiến sĩ đồng loạt xông lên. Cả chi khu rung chuyển, thủ pháo và hỏa lực B40, B41 liên tiếp nhá lửa, không cần nổ AK. Địch bất ngờ, ngỡ là pháo kích, không kịp phản ứng và rối loạn. Pháo phối hợp của Trung đội 83 phụ nữ Lâm Đồng đã bắn đúng vào khu cố vấn Mỹ.

Chỉ trong vòng 38 phút, ta đã làm chủ hoàn toàn trận địa, diệt hơn 430 tên địch và một tên cố vấn Mỹ (tương đương mỗi phút tiểu đoàn diệt hơn 10 tên địch), phá hủy hai khẩu cối 81 và nhiều xe cộ, kho tàng, thu nhiều súng, bắt hai tên tù binh. Về tổn thất, phía ta hy sinh hai đồng chí.

“Thiếu tá Bổng” và trận đánh “trên mọi bất ngờ”

Chiến thắng Pát Tơ làm nguôi ngoai nỗi đau Bác Hồ đi xa, cả bộ đội và nhân dân quanh vùng đều phấn khởi. Xưởng chè Cẩm Hương - Kim Lệ tặng tiểu đoàn 2 tạ chè, uống vài tháng mới hết. Tiểu đoàn tiếp tục nhận Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất lần thứ hai.

Tiếng tăm tiểu đoàn 200c thêm vang lừng biết mấy.

Kẻ địch dè chừng, khiếp vía.

Cứ điểm Pát Tơ tan hoang.

Nhưng vì vị trí chiến lược, nửa tháng sau, chúng tập hợp số còn sống sót và bổ sung thêm quân mới chừng một nửa tiểu đoàn, gắng gượng xây lại cứ điểm. Bây giờ, chúng đã thận trọng hơn, nhưng sự huyênh hoang, kiêu ngạo xem chừng chưa hề… tịt ngòi. Qua điện đàm, thi thoảng chúng vẫn nhắc nhở nhau: “Coi chừng Thiếu tá Bổng “ghé thăm”; “Thiếu tá Bổng vẫn ở Di Linh đó nghen!” (chúng dùng “thiếu tá Bổng” để nói về 200c). Bi hài hơn, sau trận Pát Tơ, chúng còn rải truyền đơn: “Ai lấy được đầu Thiếu tá Bổng sẽ được thưởng 500.000 đồng!”.

Phải dạy cho chúng một bài học nữa! Một bài học trên cả mọi bất ngờ!

Điện đàm của 200c về Quân khu khiến Bộ Tư lệnh kinh ngạc: 200c đề nghị tiếp tục đánh đồi Pát Tơ. Lời đề nghị đúng sau 2 tuần kể từ trận thứ nhất. Đây là kế hoạch hiếm có. Trong lịch sử chiến tranh, chắc hiếm có cứ điểm nào trong vùng địch hậu dày đặc lại bị đánh dày như vậy. Kẻ địch sau khi thua đau sẽ rất cảnh giác. Thực tế, chúng đã kịp củng cố 5 lớp hàng rào, cách 10 mét lại đặt một thùng phuy đốt lửa suốt đêm để thắp sáng, cảnh giới. Nếu đánh, không còn yếu tố bí mật, liệu có thắng không?

Đánh khi chúng vừa thua đau, còn đứng chân chưa vững, chúng sẽ không ngờ ta lại đánh tiếp, đánh mau, đánh dày đến vậy. Bất ngờ là ở chỗ đó!

Đánh để dạy cho chúng bài học mới. Với Việt Cộng, mọi việc đều có thể!

Đánh cho vơi nỗi đau Bác mất, nỗi đau Ma Lâm!

Cấp trên đồng ý, hạ lệnh cho tiểu đoàn:

Đánh!

Sau 10 đêm trinh sát, đại đội trưởng Tiên về báo cáo: Đã nắm địch như trong lòng bàn tay.

Đêm 1-11-1969, tiểu đoàn 200c lần thứ hai nổ súng đánh Pát Tơ. Lần này, trận đánh diễn ra táo bạo hơn, không cần cả tiểu đoàn ra trận mà chỉ có 32 tay súng tham gia, mật tập theo 2 mũi cách đường tiến công cũ chút ít. Vậy mà họ đã hoàn toàn bịt mắt kẻ thù. Chỉ trong vòng 28 phút, ta đã tiêu diệt 140 tên địch, bắt sống một tù binh. Phía ta hy sinh một, bị thương một đồng chí.

Chiến thắng lần hai càng làm nức lòng nhân dân trong vùng. Tiểu đoàn tiếp tục được tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng Hạng Nhì. Như vậy, chỉ trong vòng 20 ngày, tiểu đoàn 2 lần nhận huân chương, một “kỷ lục” hiếm có! Trung đoàn 53, sư đoàn 23 lần đầu chạm súng với tiểu đoàn đặc công 200c đã bị đánh tan tành.

Trở lại đồi Pát Tơ sau 42 năm, ông Hợp, ông Thành, ông Sáng, những người trực tiếp chiến đấu cả hai trận ngày ấy cứ ngỡ những gì xảy ra tựa như một giấc mơ. Họ tình cờ gặp ông Phạm Hai, nguyên Bí thư huyện ủy Di Linh, ngày bộ đội đánh đồi Pát Tơ, ông Hai còn là một thanh niên. Ông xúc động nói: “Hồi đó các anh đánh Pát Tơ dữ dằn quá, bà con hả dạ. Khí thế cách mạng lên rất nhanh. Còn bọn lính trung đoàn 53 thì như chó cụp đuôi, không còn nghênh ngang, lấc láo!”.

Họ kéo lên đồi Pát Tơ, tìm lại dấu tích chiến trường xưa. Trên mảnh đất ngổn ngang lô cốt và xác giặc năm xưa, nay đã mọc lên một ngôi trường mới, Trường tiểu học Phan Bội Châu. Ngay dưới móng tường trường học, vẫn còn những lô cốt, nhà âm. Trường học xây trên nền lô cốt và bên lô cốt những đoá hoa sim đầu mùa bắt đầu nở tím ngắt…

Ký sự của NGUYỄN VĂN MINH

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 4)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 3)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 2)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 1)