Kỳ 3: 200C – Anh là ai?

Chỉ trong vòng 3 tháng, hàng nghìn tên Mỹ - ngụy bị tiêu diệt, hàng nghìn súng, pháo, xe cộ, rất nhiều đạn dược bị thu, bị phá hủy, kẻ thù thực sự choáng váng. Một câu hỏi đặt ra: “Những đơn vị nào của Việt Cộng đã tham gia các trận đánh đó? Chiến thuật của họ là gì? Vũ khí trang bị của họ có gì?”. Kẻ thù đã dần nhận ra sự có mặt của một tiểu đoàn kỳ lạ…

Đặc công “ra lò” và Nam tiến

200c là ai? Tìm trong sử liệu, ghi chép rất sơ sài. Tìm những hình ảnh tư liệu cũng không có. Họ sống trong rừng, chiến đấu thị thành và cứ điểm, nay đây mai đó. Nhà văn, nhà báo tới khu 6 đã ít, đến với 200c càng ít hơn. Sau hơn 40 năm, bụi thời gian càng phủ dày lên những sự kiện.

Chúng tôi chỉ còn có thể ghi lại câu chuyện của họ qua những con người đã đi qua cuộc chiến. Và một trong những vị tướng hiểu rõ nhất về 200c cho đến bây giờ là Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Quân khu 6. Gặp lại ông ở Hà Nội những ngày giữa hạ 2010, nhắc đến “200c”, đôi mắt vị tướng già vụt sáng niềm vui. Ông cùng chúng tôi ngược về một thời đánh giặc giữa núi rừng Nam Trung Bộ…

Vùng đất cực Nam Trung Bộ tiếp giáp với Tây Nguyên, nối liền Đồng Nai, Biên Hòa, Sài Gòn, là nơi gần địch nhất, nhưng lại xa các căn cứ của ta. Đường chuyển quân, vũ khí, hậu cần cho cả quân khu chỉ trên vai người nữ thanh niên xung phong. Song quân và dân Nam Trung Bộ kiên cường từ ngày Nam Bộ kháng chiến. Mỹ - Ngụy trang bị hiện đại, dồn dân, lập ấp, cô lập lực lượng ta, có hệ thống thám báo, mật thám dày đặc. Chỉ có lòng dân là căn cứ vững chắc nhất, đùm bọc, chở che, sát cánh cùng bộ đội đánh giặc bằng mọi vũ khí. Sau Mậu Thân, lực lượng ta mất mát nhiều, nhiều đơn vị phải lui về căn cứ, hoặc rải ra các căn cứ duyên hải bám dân đánh giặc.

Quân Ngụy bị lực lượng vũ trang Khu 6 bắt làm tù binh. Ảnh tư liệu.

Hầm chỉ huy Khu 6 một chiều hè yên ả. Sau Mậu Thân, tiếng súng đã im nhưng không khí chiến trường như căng ra. Địch càng ngày càng lấn tới. Ta làm gì? Đánh thế nào để lấy lại thanh thế? Phương thức, chiến thuật gì mới đặt ra? Chuông điện thoại réo vang. Tư lệnh Năm Ngà chộp lấy ống nghe: “Vâng! Đánh mạnh, đánh hiểm vào hậu cứ địch! Lấy lại thanh thế! Miền Bắc sẽ chi viện! Một tiểu đoàn đặc công cơ à? Tốt quá!”.

“Những năm đánh Mỹ, Quân khu 6 (thường gọi là Khu 6) nằm ngay sát nách quân thù. Gọi là Quân khu, nhưng lúc ấy chúng tôi đâu có các quân binh chủng hiện đại, mà chỉ có bộ đội và có vũ khí trang bị gọn nhẹ, nếm mật nằm gai, bám đất bám dân đánh địch. Có được một đơn vị đặc công, với chúng tôi quả là quý hơn vàng. Ngày 17-8-1968, lãnh đạo Quân khu quyết định thành lập hẳn một tiểu đoàn đặc công riêng, lấy phiên hiệu là 200c, trực thuộc Quân khu với ý đồ tiểu đoàn sẽ là một quả đấm thép, cơ động đánh mạnh, đánh hiểm vào lòng địch, vừa “dằn mặt” chúng, vừa vận động nhân dân, mở rộng hậu phương ta” - Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên nhớ lại.

Ở đây, cần nói rõ hơn việc miền Bắc chi viện cho Khu 6 hẳn một tiểu đoàn đặc công có ý nghĩa như thế nào? Lối đánh đặc công đã có từ cuộc kháng chiến chống Pháp và Đại tá Trần Công An, được mệnh danh là người khai sinh lối đánh đặc công vào ngày 19-3-1948, ông cùng đồng đội lần đầu bí mật diệt gọn tháp canh cầu Ba Kiên. 19 năm sau, ngày 19-3-1967, cũng là ngày chính thức thành lập Binh chủng Đặc công. Bộ khung chỉ huy lấy từ Sư đoàn 305 của Khu 5 kiên cường, làm nòng cốt để xây dựng lữ đoàn dù đầu tiên của Việt Nam. Nhưng các nhà chỉ huy sớm nhận ra việc xây dựng lữ đoàn dù chưa phù hợp với cách đánh của ta, toàn bộ lữ đoàn dù trở thành khung huấn luyện binh chủng đặc công đáp ứng đòi hỏi “nắm thắt lưng địch mà đánh” trong bối cảnh phải “lấy yếu thắng mạnh”. Lúc mới thành lập, Binh chủng đặc công chỉ có 9 tiểu đoàn. Trong đó, Tiểu đoàn 1 đóng tại Đông Triều (Quảng Ninh) đã trở thành một trong những “lò đào tạo” đặc công để tung vào chiến trường. Mỗi năm, tiểu đoàn “sản xuất” 2-3 tiểu đoàn đặc công mới. Khóa huấn luyện thứ 2 của tiểu đoàn này sau khi “tốt nghiệp” được được điều ngay cho Khu 6, chuyển phiên hiệu 2004C, sau đổi thành 200c để hạn chế sự theo dõi của đối phương. Như vây, 200c có “gốc gác” từ Tiểu đoàn 1, Sư đoàn 305, 1 sư đoàn có tiền thân từ đội du kích Ba Tơ. Họ đinh ninh lời Bác Hồ dạy khi thành lập binh chủng đặc công: Bộ đội đặc công là bộ đội đặc biệt, công tác đặc biệt.

Ông Phạm Văn Hợp, một trong những cán bộ khung đầu tiên nhớ về “cái thuở ban đầu” như sau: “Sau mấy tháng huấn luyện, cả tiểu đoàn bao gồm hơn 500 người được cấp hơn 500 cái xe đạp, đạp một mạch vào tới khu vực đường 9 Nam Lào, bàn giao xe, nhận ba lô hành quân bộ”. Họ luồn rừng Trường Sơn đúng 5 tháng 7 ngày thì tới sông La Ngà (Bình Thuận) vào tháng 7-1968. Cả tiểu đoàn ém mình trên vùng núi Đá Chát hoang vu.
Trong hồi ký của mình, Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên kể: Có lần, ông xuống thì chỉ thấy những bụi cây thấp, phía dưới là cát, vậy mà chỉ một lúc đã có cơm nóng, nước sôi. Thì ra tất cả gạo, nước, xoong nồi anh em ta đều vùi giấu xuống cát, sau khi đi đánh địch về lại lấy lên dùng. Đêm đến, anh em người thì mắc võng, người rải ni-lông xuống cát nằm ngủ. Đúng là rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. Thức ăn ngoài sắn, lúa tự trồng còn dựa vào dân và dựa vào… rừng. “Thiếu ăn đã trở thành bệnh kinh niên. Nhiều lúc phải đốt đuốc ban đêm để tăng gia, nhưng cũng chỉ đủ củ sắn cho đỡ đói lòng. Còn nước thì thật là cơ cực. Có lúc ở căn cứ, quà mừng đám cưới mang đến cho nhau chỉ là mấy bi đông nước. Còn tắm thì anh em có lối “tắm lửa”, đốt củi rồi hơ vào người cho vã mồ hôi, sau đó lấy tay kỳ cọ cho sạch” – Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên viết.

Áo vải tay không, đi lùng giặc đánh!

Như vậy, bộ đội đặc công 200c ban đầu toàn người miền Bắc. Vậy mà Hòa Đa rồi tới Sông Mao, đánh đâu thắng đấy. Mà thắng vang dội, thắng hoàn toàn. Thắng đến mức kẻ thù không hiểu họ “vì sao thắng”. Về tương quan, căn cứ địch có xe tăng, pháo binh, lô cốt, các loại vũ khí, còn đặc công đi đánh giặc, chiến sĩ, lòng yêu nước là vũ khí, vào đồn giặc với quần lót, áo mỏng, vũ khí là thủ pháo B40, họ đã vào tận sào huyệt địch để nổ súng. Vậy họ đã được trang bị những gì?

Câu trả lời là: Không gì cả!

Đổi thay trên chiến trường xưa, vườn điều làm mất dấu chi khu quân sự Đạ Oai (Lâm Đồng). Ảnh: Văn Minh

Nhà văn Hà Đình Cẩn, người từng thực tế ở chiến trường Khu 6 đã kể lại: “Trong chiến tranh, Quân khu 6 nằm sâu trong lòng địch, nổi tiếng gan góc và kham khổ; lương thực, thực phẩm, thuốc men gần như tự cấp, tự túc, sống dựa vào rau rừng, cá suối. Những năm 69, 71, do địch bao vây tứ phía, nên tiêu chuẩn lương thực cả năm của Tư lệnh Quân khu cũng chỉ được cấp phát một gùi thóc. Từng hạt thóc quý như vàng, một hạt cũng không dám cắn chắt để anh em trong sở chỉ huy đem ra cứ tăng gia trong rừng sâu làm rẫy gieo hạt, sống hằng ngày bằng củ rừng và lá bép. Nhà báo Phạm Phú Bằng, nhà văn Nam Hà đã tới Quân khu 6 từ những năm trước, người được tặng một bát gạo, người được tặng bát thóc giống để lên cứ… tăng gia!”. Nhà báo Phạm Phú Bằng còn kể thêm rằng, khi ông vào Khu 6, bữa cơm “thịnh soạn” nhất của khu ủy chiêu đãi ông cũng chỉ có lưng bát cơm trắng. Sống kề nanh vuốt địch, người lính ngày thì tăng gia, đêm thì đi đánh giặc. Gốc sắn này vừa nhổ lên, lại cắm ngay thân sắn xuống để người sau có cái ăn. Ấy vậy mà trước ngày tổng tiến công xuân 1975, Khu 6 đã xây dựng được 3 khu sản xuất lớn dưới dạng nông trường, vỡ hoang gần một nghìn mẫu đất đồi rừng trồng ngô, sắn; làm được ba trăm héc-ta lúa nước, dự trữ được gần năm nghìn lạng vàng… Lòng dân là nguồn cung cấp vô tận. Ở huyện Di Linh, có bà Síu là thương gia, lấy chồng Pháp, sở hữu nhiều đồn điền. Bà thường xuyên cho lương thực, thực phẩm, giúp bộ đội ta. Trận đánh đồi Pát Tơ năm 1969, bà hứa tặng một con bò nếu quân ta thắng trận để khao quân. Ta thắng giòn giã, bà tặng luôn con bò rất to. Vậy mà, chiến sĩ đi dắt bò về do thiếu kinh nghiệm, lúc qua sông gặp lũ, bò trôi mất, cả tiểu đoàn cứ tiếc hùi hụi!

Ăn uống khổ thế, súng đạn cũng chẳng nhiều. Cuối đường mòn Hồ Chí Minh, nên vận chuyển được một viên đạn pháo về đến Bình Thuận phải mất vài tháng, sơn vỏ đạn đã tróc gần hết. Ở Quân khu 6 ngày đó, bắn một quả đạn cối cũng phải được lệnh của Tư lệnh Quân khu!

Trước những trận thất bại hàng trăm, hàng nghìn tên, có tên tù binh đã khai rằng, cấp trên chúng phán đoán: Lính 200c dứt khoát phải tham gia Điện Biên Phủ rồi thì mới gan dạ vậy? Chúng đâu biết rằng, họ toàn trai tráng trẻ măng. “Già” nhất như Đại tá Nguyễn Văn Bổng, Tiểu đoàn trưởng đầu tiên ngày đó cũng vừa cưới vợ, một cô gái phố cổ Hà Nội gốc, giã từ Hà Thành để nếm mật nằm gai đánh giặc ngày đêm. Ông kể: “Ngày đó, mình cũng mới gần 30 tuổi, anh em chiến sĩ còn trẻ hơn. Từ miền Bắc vào, lạ nước lạ cái, nhớ vợ đến quay quắt. Có lúc phải kêu lên: “Hợp ơi! Tao nhớ cả mùi vợ tao mày ạ!”. Ấy vậy mà rồi từ “tướng” đến “quân” chỉ còn nghĩ đến nhiệm vụ, đánh là đánh cho ra trò, đánh đến người cuối cùng”!

Khu 6 là một chiến trường điển hình về khó khăn gian khổ. Để có được lực lượng vũ trang cách mạng, ta phải xây dựng từng người dân thành cơ sở; từng cơ sở thành chiến sĩ; từng chiến sĩ thành cán bộ; từ tiểu đội đến trung đội, đại đội rồi thành tiểu đoàn, trung đoàn… Vì vậy, 200c cũng chẳng phải đông quân, nhiều súng đạn gì. Tất tật chỉ có 1 khẩu ĐKZ 75, một số B40, B41 và AK. Đạn dược, thủ pháo, chất nổ thì khi nào đánh mới lĩnh về. Nhưng kẻ địch luôn “gờm”, đoán già đoán non về lực lượng, phương tiện của 200c. Chúng cũng chẳng biết Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Bổng cấp bậc gì, gọi đại là “Thiếu tá Bổng” (có lẽ chúng “phiên” cấp tiểu đoàn tương đương hàm thiếu tá như của quân đội Sài Gòn, chứ thực chất ông Bổng khi đó mới là thượng úy). Còn vũ khí trang bị chúng đoán ta nhiều súng, lắm pháo, nhưng nhiều lần càn quét, chẳng thu nổi một khẩu, cùng lắm thu được vài cái… xong vùi dưới cát!

Hành trang vật chất của Tiểu đoàn 200c chỉ có thế. Nhưng với hành trang khác còn quý báu hơn - một trái tim rực lửa anh hùng, họ liên tiếp lập những chiến công vang dội. Nhưng không có tấm huân chương nào là không có hai mặt của nó. Đã có những mất mát, hy sinh không thể nói bằng lời và nỗi đau cho đến hôm nay vẫn còn nhói lòng những người đang sống. Đó là câu chuyện chúng tôi sẽ kể với bạn đọc ở kỳ sau…

Ký sự của NGUYỄN VĂN MINH

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 2)

“Lưỡi gươm thần” cuối trời Nam Trung Bộ (kỳ 1)