QĐND Online – Nói đến truyền thống khoa bảng của huyện nhà, người Bình Giang (Hải Dương) thường tự hào kể về làng Mộ Trạch- nơi được mệnh danh là “Lò tiến sĩ xứ Đông”; khi nói về lễ hội truyền thống, mọi người lại nhắc đến Lễ Chữ ở xã Bình Minh; và khi nói về nghề truyền thống, nghề đầu tiên mà người dân nơi đây nhắc đến là nghề làm lược tre ở làng Vạc (hay còn gọi là làng Hoạch Trạch), xã Thái Học. Nghề đã tồn tại ở làng hơn 3 thế kỷ nay…
Lược theo Tiến sĩ về quê
Sử sách có ghi, Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền (1659-1716), người làng Vạc, đỗ Hương cống năm 17 tuổi. Đến năm 22 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ, rồi ra làm quan. Khi làm Bồi tụng ngự sử đài, ông đã xử án rất công minh, nên người xưa có câu ca tụng: “Văn chương Lê Anh Tuấn/ Chính sự Nhữ Đình Hiền”.
Trong những năm đi sứ ở Trung Quốc (1697-1700) để đàm đạo việc đất đai biên giới, ông đã học được nghề làm lược tre, mang về truyền dạy cho dân làng. Nhà thờ họ Nhữ Đình-nơi thờ ông Tổ nghề Lược-Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền, năm 1993 đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến năm 2009, thôn Vạc lại được UBND tỉnh Hải Dương công nhận danh hiệu Làng nghề Lược truyền thống.
 |
Nhận lược bán thành phẩm về hoàn thiện là cách làm của nhiều gia đình ở làng Vạc.
|
Khi nghề mới được đưa về làng Vạc, từ công đoạn đầu tiên-pha nan, đến khi có chiếc lược tre hoàn chỉnh, phải trải qua tới …36 công đoạn. Nay, nhờ sử dụng máy móc nên các công đoạn làm lược đã được rút ngắn phần nào, tuy thế, nghề làm lược tre làng Vạc vẫn được coi là khá cầu kì, công phu.
Ngoài 4 chiếc “vè hom” ở hai đầu ngoài cùng của mảng răng lược được làm từ xương trâu, các chi tiết khác đều được khai thác từ thiên nhiên. “Răng” lược được làm từ cây lành hanh; “cái” hay còn gọi là thân lược được làm từ cây vầu; sơn-chất liệu dùng để gắn lược được chiết từ cây sơn ta.
Nan lành hanh mang ra phơi cho đỏ, rồi chẻ nhỏ, vót lấy cật, bẻ nan, ken lược thành mảng. Vầu ngâm đem phơi khô, chẻ và vót lấy cật, cắt khúc, bào cho phẳng nòng để làm “cái”; xương sườn trâu chẻ nhỏ, mài bóng.
Chất liệu truyền thống mà người làng nghề dùng để kết dính các chi tiết của lược lại với nhau là nhựa cây sơn ta. Nhựa được phết vào nòng “cái”, rồi ép chặt “cái” với mảng ken lược.
Chưa hết, còn phải thực hiện 5 công đoạn tiếp theo là đánh nhỏ răng bằng máy, chặt bằng răng, đánh thêm một lần bằng máy, một lần bằng tay, cuối cùng là mài trấu.
Người làng giải thích, rằng nghe các cụ truyền lại, được mài qua trấu, khi chải lược sẽ “ăn da đầu” hơn.
Chợ Lược xưa
“Đây là nghề vừa tiết kiệm được lao động, vừa không kén mùa vụ, thời tiết. Người già, con trẻ, thậm chí cả người tàn tật cũng có thể làm được nghề này. Vì lẽ đó mà có một thời gian dài, 100% hộ gia đình ở địa phương đều làm lược”- ông Nhữ Đình Thắng- cán bộ văn phòng UBND xã Thái Học tâm sự.
Người dân vẫn còn nhớ khá rõ cái thời hưng thịnh của làng nghề. Đó là quãng thời gian từ năm 1975 đến 1990. Khi ấy, mỗi năm cả làng làm ra tới 9 triệu chiếc lược; có gần 30 ông chủ lớn của làng chuyên sản xuất và kinh doanh mặt hàng này.
Trong những năm ấy, manh áo, miếng cơm, cả tiền ăn học của con em nơi đây đều trông vào nghề làm lược tre. Làng Vạc còn được coi là điểm sáng trong phát triển nghề truyền thống của tỉnh Đông
Ông Phạm Ngọc Mạnh- Phó Bí thư Đảng ủy xã thì nhớ lại: sở dĩ trong những năm ấy, nghề phát triển như vậy bởi hiệu quả kinh tế từ sản xuất nông nghiệp thấp, trong khi nghề làm lược mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Trước năm 1975, lược tre được đưa đi tiêu thụ trên khắp miền Bắc, song được tập kết nhiều nhất ở chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, lược tre lại tìm kiếm được những thị trường mới ở miền Nam.
Nói đến chuyện mua, bán lược, cả ông Thắng, ông Mạnh đều nhớ đến một ngôi chợ của làng Vạc. Đấy cũng là cái chợ độc nhất vô nhị ở nước ta- chợ Lược.
Chợ Lược họp có phiên, vào các ngày 3, 5, 8, 10 âm lịch. Cứ đến phiên chợ, người buôn bán nguyên liệu lại chở lành hanh, vầu ngâm, nhựa sơn ta từ rừng về; người làm lược mang lược ra chợ bán; rồi lái buôn từ các nơi khác về chợ, cùng gom hàng với các ông chủ của làng, làm cho làng Vạc như có hội mỗi khi đến phiên chợ Lược. Ngoài những mặt hàng ấy, chợ không bán thêm mặt hàng nào khác.
Trước kia, chợ chỉ họp giữa đường làng. Cho đến năm 1990, các gian hàng nhỏ nhắn đã được dựng lên cạnh đây.
Song cái không khí nhộn nhịp ở chợ Lược giờ chỉ còn là chuyện của ngày xưa, bởi cách đây chừng 6 năm, người ta không còn thấy lược làng Vạc tìm ra chợ Lược…
Nghề Lược nay
Chạy dọc con đường dẫn từ UBND xã Thái Học về làng Vạc, chúng tôi vẫn hy vọng bắt gặp hình ảnh nhà nhà làm lược, người người làm lược như từng nghe kể, nhưng trái lại, cả một quãng đường dài, chỉ thấy những mảnh sân, căn nhà im ắng. Gặp một cụ già đang thong thả đạp xe trên đường làng, cụ bảo: “Đúng là trước đây ở làng Vạc nhà nào cũng theo nghề làm lược, song nay nhiều người đã bỏ nghề rồi. Các anh bảo nay mấy người còn chấy, rận mà dùng lược tre nữa”
Rồi cụ còn nói thêm rằng, trước đây gia đình cụ cũng theo nghề này, song đã bỏ nghề chừng 10 năm nay.
 |
Mài răng lược.
|
Chạy trên con đường làng dẫn qua Đội 2, nghe tiếng “côm cốp” phát ra từ ngôi nhà bám mặt đường, chúng tôi ghé vào, đó là nhà của anh Nguyễn Văn Đoàn. Anh đang thực hiện công đoạn “chặt bằng răng lược”. Đây là những chiếc lược bán thành phẩm anh vừa nhận từ một ông chủ chuyên thu gom lược ở làng này.
Cũng như bao gia đình khác ở làng Vạc, nhiều thế hệ trong gia đình anh đã gắn bó với nghề này. Anh không nhớ rõ đã có mấy đời nhà mình làm lược, chỉ biết khi bé đã thấy ông nội anh ngày đêm cặm cụi với nghề.
Tuy nhiên, khi được hỏi về hiệu quả kinh tế mang lại từ nghề, anh Đoàn tâm sự: “Với mỗi chiếc lược bán thành phẩm như thế này, sau khi đánh nhỏ răng bằng máy, chặt bằng răng, đánh thêm một lần bằng máy và một lần bằng tay, giao trả lại cho chủ, tôi được 500 đồng tiền công. Thu nhập từ lược cũng hoàn toàn phụ thuộc và số lượng lược được chủ giao. Vì những lẽ ấy nên tôi cũng phải tranh thủ làm thêm nhiều nghề khác”.
Theo anh Đoàn, làm lược không khó, nhưng đòi hỏi tính tỉ mỉ và rất mất thời gian, nên với anh, bây giờ, đó chỉ là nghề phụ.
“Lúc thì tôi lên chợ Phủ Bình bốc tre, gỗ; khi thì theo anh em đi làm phu hồ. Tuy mệt nhưng thời gian rảnh rang hơn mà kiếm được nhiều tiền, chứ không phải bó gối mài mài, chặt chặt cả ngày.”- anh Đoàn bộc bạch.
Trước đây, khi hai vợ chồng mới lấy nhau, vợ anh cũng theo nghề một vài năm, sau đó thì bỏ hẳn và xin làm công nhân tại một công ty may ở Cẩm Giàng.
Anh nói: “Thanh niên trai tráng ngồi nhà làm lược nay hiếm lắm. Họ không đi làm công nhân ở các công ty, xí nghiệp thì cũng đi ngoại tỉnh làm thuê”.
Ông Nguyễn Huy Cộng, một trong số những ông chủ lớn chuyên kinh doanh lược từ những năm nghề làm lược còn hưng thịnh, nay cũng khá bi quan: “Nó là cái nghiệp đã theo mình mấy chục năm nay thì cứ cố thôi, chứ làm ăn giờ khó lắm. Giá nguyên vật liệu tăng cao, trong khi giá lược rẻ mà “cầu” lại thấp”.
Ông Cộng kể, trước những năm 90, mỗi tháng ông xuất 3 xe Kamas hàng, ước chừng gần 250 nghìn chiếc, nhưng nay dễ đến 2 tháng mới xuất được khoảng 60 nghìn chiếc.
“Nghề đang mai một, đó là điều mà người làng này ai cũng nhận thấy. Nhưng tôi lo là xa hơn nữa, có lẽ nghề làm lược tre ở làng Vạc sẽ không còn”- ông Cộng trầm ngâm.
Có lẽ cũng vì không còn nhìn thấy tương lai ở nghề truyền thống nên từ gần 30 ông chủ năm nào, nay những ông chủ như ông Cộng chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay.
Hàng ít, người làm hàng cũng không còn nhiều như xưa nên mọi chuyện bán, mua lược ngày nay đều được thực hiện ở nhà mấy ông chủ lược. Bởi thế nên chợ Lược nay không còn bán lược. Trong những gian hàng lạnh lẽo, chỉ có mấy người hành nghề cắt tóc
Trước khi rời làng Vạc, chúng tôi có hỏi anh Đoàn chuyện truyền nghề lược cho hai đứa con. Anh giãy nảy rồi khẳng định chắc như đinh đóng cột, rằng có khó cũng cố cho con ăn học nên người, để các cháu xin việc vào các cơ quan, xí nghiệp, chứ quyết không để các con theo nghề làm lược.
Cứ như lời tâm sự ấy, có lẽ anh Đoàn sẽ là thế hệ cuối cùng trong gia đình còn gắn bó với nghề làm lược tre truyền thống…
Bài và ảnh: Phạm Hoàng Hà