Từ thị xã Cao Bằng, ngược một con dốc chừng 30km là đến xã Phúc Sen thuộc huyện Quảng Uyên. Trên cao, sơn thủy hữu tình. Núi, mây, cánh đồng, sông suối, đều thăm thẳm một màu xanh. Đất trời lộn sắc.

Những ngôi nhà sàn, ngói máng thâm nâu của Phúc Sen nép quanh chân núi, đẹp như vẽ. Trong các mái nhà ấy, phần lớn đều phì phò một bễ than hồng. Cả xã rộn vang tiếng “bụp”, “chát”, “queng”... biến những thanh thép lạnh lùng thành nông cụ cầm tay-bạn thân thiết của người miền núi.

 

“Phúc Sen Anh hùng vì... chịu khó”

Đó là lời anh Long Văn Thắng, khi chúng tôi hỏi chuyện anh về truyền thống Phúc Sen. Anh bảo: “Phúc Sen được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kì đổi mới là đúng lắm. Người Nùng An ta chịu khó làm lụng. Những lúc đợi lúa chín, ngô già, cả làng không ai ngồi chơi. Người thì đóng gạch, người thì đan lát, người thì dệt vải, hong chàm. Nhưng nghề nhiều người theo nhất từ nhiều đời nay là nghề rèn. Dao của Phúc Sen chặt được đá. Rìu của Phúc Sen động vào cây gỗ lim, gỗ nghiến lâu năm cũng trở nên mềm như cây sung, cây ngái. Thế thôi mà, Phúc Sen anh hùng vì chịu khó”!

Cả xã Phúc Sen hơn 2.000 nhân khẩu, 100% là người Nùng An. Khi chúng tôi đến bắt gặp một khung cảnh lao động rộn ràng như một công trường đang trong những ngày thi đua nước rút. Không thấy có hàng quán, không có thanh niên túm năm tụm ba cờ bạc rượu chè. Cả làng trên xóm dưới rộn vang tiếng búa, tiếng va chạm của kim loại. Hơn 100 lò rèn trong xã, lò thì 5, 7 thợ, có lò chỉ 2 vợ chồng cũng một bễ than hồng và thậm thịch tiếng búa từ sáng tới khuya. Cũng vì chịu thương chịu khó nên gương mặt Phúc Sen ngày ngày thay đổi. Xã có trường mầm non, trường tiểu học, trường THCS với gần 200 học sinh, có cả học sinh giỏi cấp tỉnh. Trong 9 tháng đầu năm xã có 620 con trâu (tăng 12 con so với cùng kì); 313 con bò (tăng 41 con so cùng kì), đàn lợn cũng gần 1.000 con, gia cầm gần 10.000 con…cuộc sống của người Phúc Sen chưa giàu sang, nhưng hạnh phúc.

 

Một làng nghề trọng danh dự

Đối với Phúc Sen, nghề rèn không phải là tất cả, vì đó không phải là nguồn sống chính của cả xã. Họ chỉ nổi lửa rèn lúc nông nhàn. Nhưng, cái nghề ấy đã như cái nghiệp với người Phúc Sen mấy trăm năm nay (có người nói hàng nghìn năm nay, hay là từ bao giờ không ai biết). Sản phẩm rèn nông cụ (nhất là các loại dao, cuốc) của Phúc Sen nổi tiếng khắp vùng, tiếng thơm bay tới cả miền Nam để nhiều bạn hàng chung thủy vượt đường xa chở dao Phúc Sen “du lịch” khắp chiều dài đất nước. Hình ảnh “Đèo cao nắng ánh dao dài thắt lưng” của người miền núi phía Bắc có một phần tâm hồn, chí khí của người Phúc Sen trong đó.

Công đoạn cuối, Cao Nguyên đang tỉa tót sản phẩm.

Một câu hỏi tôi luôn đặt ra khi đến các lò rèn ở Phúc Sen: “Bí quyết nào để dao Phúc Sen sắc mãi, để nghề rèn Phúc Sen trở thành một thương hiệu “hữu xạ tự nhiên hương?” Người Phúc Sen thân tình, hồ hởi, không giấu nghề, từ đồng chí Nông Văn Chung, Phó bí thư Đảng ủy xã đến các tay thợ lành nghề, “cao thủ” như Cao Nguyên đều bảo không có bí truyền gì. Kiên nhẫn ngồi đợi Cao Nguyên nghỉ giải lao để mò hỏi thì mới thấy, bí truyền chính là chữ tâm trong nghề của người Phúc Sen.

Cao Nguyên bảo, “than đang hồng mà ngồi tiếp khách thì chỉ có tôi, người khác tiết kiệm từng phút. Nhưng mấy khi…” nói rồi anh với chai “năm chân”, rót hai chén bằng cạp, đủn một chén sang tôi, giục: “Uống đi. Uống rồi mới nói được chứ”! Cũng đã từng “lâm trận” bằng bát trên vùng cao, tôi nhắm mắt, “ực” luôn. Cao Nguyên tủm tỉm:

- Không có bí truyền gì đâu, chỉ làm cẩn thận là được.

     - Cẩn thận như thế nào, khâu nào là chính?

     - Từ lúc chọn thép. Được nhíp ô-tô của Nga, của Nhật thì mới tốt, dính nhíp Tàu chán lắm.

     - Nước tôi có quan trọng không?

     - Có. Già cũng hỏng, non cũng hỏng.

     - Thế nào là già, thế nào là non?

     - Không nói được. Làm nhiều mới biết. Tôi theo nghề của cha ông từ lúc 12 tuổi, mấy chục năm rồi bây giờ nhìn mới thấu tâm thép. Thợ rèn Phúc Sen nhìn thấy, nhưng người khác không thấy đâu.

Cũng theo Cao Nguyên, nghề này ai nhanh phải 3 năm theo học mới có thể làm được, có người 5 năm cũng không làm được. Bởi, kĩ thuật rèn thủ công như ở Phúc Sen không có công thức, nó là dạng “truyền khẩu phi vật thể” nên chỉ cảm nhận bằng sự tinh tế của tai, của mắt, của tay người thợ. Khi người thợ giơ búa lên, không phải cứ nghiến răng quai mạnh là được, đặc biệt trong lúc sắp thành phẩm, cần vừa mạnh, vừa có độ dằn, độ miết, độ nghiêng của búa. Cũng có những nơi làm dao kéo theo kiểu “bổ thép”, có nghĩa là toàn bộ 90% con dao là bằng sắt, khoảng 1cm lưỡi dao được kẹp một lá thép mỏng. Vì vậy dùng một thời gian dao “hết thép”, mài rất sắc, nhưng thái rau cũng cùn ngay. Người Phúc Sen không làm theo kiểu hàng mã ấy. Toàn bộ một sản phẩm của Phúc Sen là một khối thép, làm cùn mài lại sắc như mới. Làm đến 10 năm, 20 năm bao giờ con dao mòn hết, vẫn sắc như mới ra lò. Cũng vì thế, giá thành một con dao thái rau bình thường của Phúc Sen 40 nghìn đồng, đắt gấp 3 lần dao nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, nhưng hơn 100 lò rèn của Phúc Sen vẫn sống được với nghề. Trừ chi phí than và thép, mỗi con dao còn được 20 nghìn đồng. Số tiền ấy nghe có vẻ “lãi lớn”, nhưng để làm ra một con dao nhỏ, 2 người thợ lành nghề phải cật lực trong khoảng 2 giờ. Trừ tiếp chi phí sinh hoạt và kết tinh lao động quá khứ thì Phúc Sen thực sự lấy công làm lãi. Họ sống được với nghề vì tình yêu lao động, vì ngọn lửa làng nghề trong họ không vơi cạn.

Long Văn Thắng và Sạch Văn Báo hát dân ca Nùng An tiễn khách.

 

Lửa trong tâm hồn

Hôm ấy Việt Cảnh, Phóng viên Đài Phát thanh-Truyền hình Cao Bằng dẫn chúng tôi đến ăn cơm trưa tại nhà Long Văn Thắng. Theo yêu cầu của khách là có gì dùng nấy, nên chủ nhà đã nấu cơm gạo mới, mổ gà trong vườn, rau cũng trong vườn. Cả chủ và khách gần mười người khoanh chân trên nhà sàn, quây quần bên mâm cơm, canh nghi ngút, hương thơm bay khắp bản. Khi men say ngà ngà, tình cảm đã thêm gần, sắp có thể hòa vào nhau, gọi nhau bằng “tao, mày”, Long Văn Thắng và Sạch Văn Báo đã tiễn chúng tôi một điệu dân ca Nùng An. Sau bao ngày toan lo ruộng đồng, lại dồn cả tâm sức cho những lò rèn, nên hai anh cũng phải lục tìm điệu dân ca bị vùi sâu trong kí ức. “Thảo luận” một hồi, rồi hai người bên nhau nghiêng ngả, hát rằng: “Nàng ơi, ta nói được câu này với nàng bởi lòng ta rất sáng. Ta hát được câu này với nàng bởi chân ta không mỏi, bởi tâm hồn ta đã bao mùa quanh quẩn bên nàng. Nàng ơi, núi cao nàng mỉm cười cũng thành núi thấp, đường xa nàng mỉm cười đường trở nên gần…”.

Bước xuống cầu thang, bạn tôi trong bộ trang phục Nùng An làm các mẹ, các chị đang hong chàm nhà bên rúc rích cười, nói với sang:

     - Ô, đẹp quá, đúng người Nùng An ta rồi!

- Đẹp à, cho làm con rể Nùng An Phúc Sen được không?

- Ô, già thế kia thì chỉ làm bố rể được thôi…

Cứ thế, nhà tiếp nối nhà, Phúc Sen tiễn chúng tôi bằng những lời mời, lời hẹn, có cả tâm tình như đã thân thiết từ lâu.


Bài và ảnh:
NHẤT THẢO