QĐND - Dù phải lo toan bao việc chung-riêng nhưng cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng 721 (Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Gia Lai) vẫn chắt chiu, dành dụm những đồng lương eo hẹp của mình để hỗ trợ các cháu học sinh dân tộc thiểu số Gia Rai nghèo ở xã biên giới Ia Dom, huyện Đức Cơ có điều kiện được đến trường. Không chỉ vậy, các anh đã tự nguyện làm “điểm tựa tinh thần” để các cháu luôn yên tâm học tập vì một tương lai tươi sáng hơn.

Cử chỉ bình dị hằng ngày của cán bộ Đội công tác địa bàn (Đồn Biên phòng 721) dành cho các cháu học sinh dân tộc thiểu số tham gia “Bếp ăn tình thương”. 

 

Tôi đến công tác tại Đồn Biên phòng 721 vào thời cao điểm của mùa mưa Tây Nguyên. Mưa dầm dề, mưa lê thê, mưa nhiều đến mức bất cứ ai đến vùng đất cao nguyên này không khỏi ngạc nhiên và có phần ngao ngán vì trời âm u và nền đất lúc nào cũng sũng nước. Trên đường vào Đồn 721, khi qua khu vực Trường Tiểu học xã Ia Dom, huyện Đức Cơ, bất chợt tôi thấy một sĩ quan trẻ mang quân hàm xanh cầm chiếc ô khá to đang che mưa cho hai cháu nhỏ đi ven đường. Cử chỉ bình dị của người sĩ quan đối với hai cháu nhỏ khiến tôi không khỏi xúc động. Tôi lấy máy ảnh ra định thu vào ống kính hình ảnh đó, thì anh mỉm cười và nhã ý nói với tôi: “Chuyện thường ngày của chúng em mà, có gì đâu anh”. Qua trò chuyện, tôi biết đó là Thượng úy Nguyễn Văn Quang, Chính trị viên phó Đồn 721, Bí thư chi bộ Đội công tác địa bàn. Anh Quang giới thiệu với tôi: Đây là hai cháu Rơ Mah Hiếu và Kso H’Phan, 7 tuổi, ở làng Mook Trê, xã Ia Dom, hiện đang học lớp 1 tại trường tiểu học của xã. Hôm nay trời mưa to, các cháu đi lại khó khăn, nên chúng tôi tranh thủ sang trường đón các cháu về ăn nghỉ bữa trưa tại “Bếp ăn tình thương” của đồn.

Chỉ thoạt nghe cái tên “Bếp ăn tình thương”, tôi cũng đã hình dung phần nào ý nghĩa của bếp ăn này. Nhưng khi tìm hiểu, chứng kiến những việc làm của cán bộ, chiến sĩ Đồn 721 dành cho các học trò nghèo, tôi mới cảm nhận hết ý nghĩa nhân văn của hai chữ “tình thương” nơi núi rừng Tây Nguyên. Những năm qua, trong quá trình vận động trẻ em nghèo tới trường, đồn đã có nhiều việc làm thiết thực như tặng sách vở, đồ dùng học sinh và một khoản tiền nhất định để giúp các cháu trang trải chi phí vào đầu năm học mới, nhưng vẫn có em đến lớp được 2-3 tháng rồi lại tự ý bỏ học. Tìm hiểu ngọn nguồn mới biết, chỉ vì gia đình các em quá khó khăn, bữa no, bữa đói thất thường khiến các em không thể bám lớp thường xuyên.

Với mong muốn không để cái nghèo cản bước việc học của các cháu học sinh dân tộc thiểu số, Ban chỉ huy Đồn 721 đã phát động phong trào “Cùng nâng bước chân em tới trường”. Bên cạnh quyên góp, ủng hộ quần áo, sách vở, từ tháng 4-2013, đồn đã xây dựng “Bếp ăn tình thương” dành cho 11 học sinh từ lớp 1 đến lớp 7 có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Để duy trì bếp ăn này, hằng tháng mỗi cán bộ chỉ huy đồn tự nguyện đóng góp 200.000 đồng, còn các sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đóng góp 100.000 đồng. Tổng số tiền đóng góp mỗi tháng là 6 triệu đồng dành để mua lương thực, thực phẩm cho các cháu có một bữa ăn no đủ vào buổi trưa hằng ngày.

“Bếp ăn tình thương” của Đồn 721 được bố trí trong căn phòng khá rộng rãi, thông thoáng ngay bên cạnh Đội công tác địa bàn. Các anh đã tận dụng tối đa không gian của phòng để chia thành hai khu vực. Khu vực nấu nướng có bếp ga, giá đựng bát đũa, nồi cơm điện, tủ thuốc gia đình, bàn ghế ăn, đồ nào thức ấy được xếp đặt gọn gàng, vệ sinh sạch sẽ. Cạnh đó là khu vực học tập của các em, gồm một chiếc bàn hình e-líp to, kê ghế xung quanh, phía trên tường là giá đựng sách. Mỗi ngăn của giá dành riêng cho mỗi cháu đựng sách vở của mình. Phía sau bếp ăn là khu tăng gia trồng rau xanh, chuồng nuôi gia cầm để góp phần cải thiện đời sống hằng ngày của cán bộ, chiến sĩ Đội công tác địa bàn và các cháu học sinh.

Thượng úy Nguyễn Văn Quang cho biết: Để duy trì “Bếp ăn tình thương”, Đội công tác địa bàn đã phân công luân phiên mỗi cán bộ, chiến sĩ của đội phục vụ nấu nướng, giúp đỡ và mời gọi các em đến ăn cơm hằng ngày. “Sao lại phải mời gọi, thưa anh?”. Sự băn khoăn của tôi đã được anh Quang chia sẻ: “Trong số 11 cháu học trò nghèo, nhiều cháu cách trường vài ba cây số. Hôm nào thời tiết khô ráo thì không sao. Nhưng nhiều hôm trời mưa liên miên, có em ngại đến trường vì đi lại nhọc nhằn, nên chúng tôi đã đi xe gắn máy đến tận nhà để đưa các em đến lớp và mời các em trở lại bếp ăn trưa”. “Đã bận rộn với nhiều công việc của đơn vị trong ngày, việc các anh lặn lội như thế…”. Như hiểu được ý tôi, anh Quang tiếp lời: “Cũng tất bật hơn một chút, nhưng không sao anh ạ. Vì chúng tôi đều có chung một suy nghĩ: Các em đã chịu nhiều thiệt thòi, mình thêm việc một chút, vất vả thêm một chút, nhưng các em được ăn uống no đủ và cắp sách đến trường đều đặn là cảm thấy vui rồi”.

Không chỉ nấu những bữa cơm ngon, canh ngọt phục vụ các cháu, anh em trong đồn còn thường xuyên động viên, giúp đỡ các em học hành ngày càng tốt hơn. Vì hầu hết các em đều có nhận thức chậm, mức học chỉ đạt trung bình. Sau bữa ăn và ngủ trưa, chiều nào thời tiết mưa gió, các em chưa thể về nhà, khu vực bếp ăn lại trở thành nơi học tập của các cô cậu học trò nhỏ. Trung úy Kpa Giá, quê ở xã Ia Mơ, huyện Chư Prông, Phó đội trưởng Đội trinh sát, đã tranh thủ thời gian hướng dẫn, kèm cặp các cháu lớp 1. Là người con của dân tộc Gia Rai, Kpa Giá đã giúp các em biết cách đọc, đánh vần, viết được tiếng phổ thông để theo kịp được mặt bằng chung của lớp. Thiếu tá QNCN Phạm Đức Nhanh, Phó đội trưởng Đội vận động quần chúng đã giúp các cháu lớp 2, lớp 3 biết tính toán cộng, trừ, nhân, chia ngày càng thông thạo hơn. Thiếu tá QNCN Đặng Đình Thi luôn tận tình chỉ bảo các em biết cách sắp xếp sách vở ngăn nắp, ngồi học đúng tư thế và thường kể những câu chuyện “vượt khó hiếu học” trên sách báo cho các em nghe.

Tôi đến thăm các cháu ở “Bếp ăn tình thương” vào đầu giờ một buổi chiều mưa. Sau khi được Thượng úy Nguyễn Văn Quang giới thiệu, các cháu chào khách rất lễ phép. Người lớn tuổi nhất trong lớp là Siu H’Ben. Mới 14 tuổi, nhưng trông Siu H’Ben khá già dặn. Đôi mắt buồn hiển hiện khá rõ trên khuôn mặt lam lũ của em. Sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Mook Đen 2, bố quanh năm đi làm thuê, mẹ lúc thì lên rừng lấy củi, khi thì đi mót mủ cao su, 3 chị em Siu H’Ben phải sống trầy trật nơi núi rừng. Quá trình đi làm công tác dân vận, Đội công tác nắm bắt được hoàn cảnh gia đình và đưa em vào diện học sinh tham gia “Bếp ăn tình thương”. Trò chuyện với tôi, em tâm sự: “Nhờ có các chú của Đồn 721 giúp đỡ, cháu đã bớt cơ cực hơn. Cháu sẽ phấn đấu học hành tiến bộ hơn để khỏi phụ sự đùm bọc của các chú Bộ đội Biên phòng”. Tôi hỏi ước mơ mai sau của cháu sẽ làm gì, Siu H’Ben bẽn lẽn: “Cháu sẽ cố gắng học tập hết lớp 12, sau này thi vào trường sư phạm của tỉnh. Ước muốn của cháu là được làm cô giáo làng để phục vụ quê hương”.

Nhìn Siu H’Ben và các cháu ở “Bếp ăn tình thương”, càng thương cảm các học trò nơi vùng biên bao nhiêu, tôi lại càng quý trọng những nghĩa cử cao đẹp của cán bộ, chiến sĩ Đồn 721 bấy nhiêu. Không chỉ như những người cha tận tụy, người mẹ tảo tần, các anh còn như những người thầy tại chỗ luôn hết lòng vì sự no ấm, tiến bộ của các em học trò dân tộc thiểu số nghèo của xã Ia Dom. Trên khuôn mặt hồn nhiên, thơ ngây của các em còn phảng phất đâu đây của nỗi niềm gian khó, nhưng vẫn ánh lên niềm tin tươi sáng vào ngày mai. Bởi bên cạnh các em, ngoài sự quan tâm dạy dỗ của các thầy cô giáo, còn còn sự động viên, góp sức của những người lính mang quân hàm xanh đóng quân trên địa bàn xã. Rồi mai đây lớn lên, trên bước đường lập thân lập nghiệp, chắc chắn các em luôn nhớ về “Bếp ăn tình thương” và không dễ gì nhạt phai những tình cảm thân thương, trìu mến mà các cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng 721 đã dành cho mình từ thời ấu thơ.

Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN HẢI