Ông Thỏa nói với tôi: “Xót lắm chú ơi! Suốt một ngày cả đơn vị đi tìm thi thể của đồng đội. Rồi thấy Doãn nằm cùng chỗ với 4 chiến sĩ nữa, tay còn nắm chặt chiếc khăn mùi soa gấp cẩn thận, bên trong có giấy báo nhập học và khoản tiền chế độ mới được thanh toán...”.
Chị Thông kể: “Em Đinh Thị Vinh (Quỳnh Ngọc, Quỳnh Lưu) lúc nào cũng hăng hái nhận nhiệm vụ, thế mà đêm cứ khóc thút thít “em nhớ nhà lắm chị ơi!”. Còn Nguyễn Thị Hoài (Hưng Nguyên), Thái Thị Văn (Thượng Sơn, Đô Lương), nhỏ tuổi nhất lúc nào cũng nhờ chị gội đầu. Chúng bảo: “Không có lược, không có bồ kết, chị gội cho em vẫn thấy thích lắm”... Chị hiểu rõ hoàn cảnh riêng tư của từng em gái của mình. Nguyễn Thị Dung, ở quê chỉ còn một mẹ già đau yếu không ai chăm sóc khi tối lửa tắt đèn. Nguyễn Thị Bốn, bố mẹ mất sớm, ở nhà còn người anh trai và cậu em út. Bốn lại vừa được tin người anh cả nhập ngũ đi chiến đấu đã hi sinh... Thế mà các em phải nằm lại với Truông Bồn, quặn thắt lòng chị lắm các em ơi!..”.
 |
Đội cảm tử rà phá bom mìn của dân quân Mỹ Sơn. Ảnh tư liệu |
Rồi chị nói một mình, như với các em trong tiểu đội: “Chị đã có chồng. Các em còn nhớ không? Vào một đêm mùa mưa, Tiểu đoàn 71, Trung đoàn 102, Sư đoàn 308 hành quân vào chiến trường Trị Thiên. Vượt qua Truông Bồn đoàn xe bị sa lầy. Bộ đội, TNXP hò reo chống lầy suốt đêm. Anh ấy là người hăng hái nhất. Đêm ấy, anh nắm tay chị rất lâu và chị chỉ vội trao cho anh tấm ảnh mà không nói nên lời. Nhưng chị cảm nhận như có một sợi dây vô hình buộc chặt chị với anh ấy. Sau đợt đi điều trị năm 1968, chị được chuyển ngành đi học nghề may ở Vinh. Chị ở trọ trong một gia đình có ông bà già tuổi khoảng 80, ở phường Đông Vĩnh. Trên khung ảnh gia đình có một tấm ảnh của một người con gái. Chị nhận ra là tấm ảnh chị tặng anh ấy ngày nào, chỉ khác ảnh đã được phóng to hơn. Rồi chị trở thành con dâu của gia đình. Anh ấy là thương binh hạng 4/4, đã phục viên. Bây giờ chị đã có 4 đứa con trai. Ba đứa đã có vợ, sinh cho chị được 4 đứa cháu. Đứa út đang theo học Trường đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh. Mặc dù cuộc sống gia đình đang gặp nhiều khó khăn, bệnh tật trong người vẫn hoành hành, nhưng với chị thế là hạnh phúc lắm rồi. Chỉ màng một nỗi vắng các em. Những đêm mưa tầm tã, những trưa hè nắng lửa và gió lào thổi rát, tâm can chị vẫn quặn thắt. Chị nhớ các em vô cùng...”.
Người ngồi nói chuyện với tôi là một ông già tóc bạc phơ, thân hình gầy guộc, lỏng khỏng. Nhưng đôi mắt của ông rất sáng. Đó là ông Nguyễn Văn Sáu - người đội trưởng rà phá bom mìn của Mỹ Sơn ngày ấy. Nhắc đến kỷ niệm xưa, ông gục xuống, người run lên bần bật. Ông khóc tức tưởi: “Mình có phải là kẻ hèn nhát, sợ chết mô thế mà để thằng Phúc ra đi...”.
Cả làng quê Mỹ Sơn ai cũng quý trọng ông. Bởi ông là cựu chiến binh vào sinh ra tử nhiều lần trong kháng chiến, gắn bó máu thịt với việc làng, việc xã mà không suy tính thiệt hơn. Ông quê ở Mỹ Sơn, nhập ngũ tháng 4-1949, từng là Tiểu đội trưởng Tiểu đội 1, Đại đội 90, Tiểu đoàn 347 thuộc Trung đoàn 195, Sư đoàn 325. Sau kháng chiến chống thực dân Pháp, ông trở về quê tham gia dân công hỏa tuyến lên tận mạn Thượng Lào. Những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, ông tham gia mở 9 nhánh đường Eo Múa tránh Truông Bồn. Năm 1966-1969, ông Sáu được giao phụ trách đội cảm tử gồm 12 chiến sĩ, rà phá bom mìn từ Cồn Dền - Hố Cố Dai đến Hố Ba Thung.
Những ngày tháng nóng bỏng ấy, sau mỗi trận bom Mỹ giội xuống, đội cảm tử của ông lại có mặt, triển khai khảo sát, tổ chức tập huấn nhanh kiến thức tháo gỡ, xử lý từng loại bom, tìm mọi cách rà phá bom nổ chậm giữ vững huyết mạch giao thông. Với phương châm: “Người biết hướng dẫn cho người chưa biết, vừa tháo gỡ, vừa học”... Mỗi lần vào “trận”, đội tổ chức truy điệu sống cho từng chiến sĩ. Suốt 4 năm gắn bó với tọa độ lửa, với làng quê thân yêu của mình, đội cảm tử của ông đã rà phá 480 quả bom phá, bom khoan và giải tỏa 3.800 quả bom bi, bom dứa...
Ông Sáu nhớ như in một ngày tháng 9 - 1968. Ông nhận được lệnh viết tay của đồng chí Đào Quốc Tuấn, Bí thư Huyện ủy Đô Lương, Tổng chỉ huy mặt trận Truông Bồn, ghi rõ: “Hôm nay có 14 chiếc xe quân sự vào Ba Thung nhận hàng. Đề nghị đội đồng chí phải xử lý ngay quả bom nổ chậm tại khe Mây”. Nhiệm vụ rất khẩn cấp, ông cùng với 5 đội viên (Phúc, Nhâm, Thảo, Nữ, Nghiêm) trực tiếp xử lý quả bom nổ chậm ngáng đường tại khe Mây. Từ mờ đất đến lúc mặt trời đứng bóng, đã dùng nhiều phương cách xử lý mà quả bom tấn vẫn nằm chình ình ngáng giữa tuyến đường. Trong đội, ai nấy đều mệt nhoài, mồ hôi vã ra như tắm... “Trăn trở mãi, tôi đành quyết định dùng kíp và 2kg bộc phá để xử lý quả bom. Khi anh em trong đội vào vị trí an toàn, tôi ôm bộc phá định tiến về chỗ quả bom, thì Nguyễn Văn Phúc (một đội viên trong đội rà phá bom nổ chậm) chạy tới trước mặt tôi khẩn khoản: “Đề nghị đồng chí cho tôi được phá quả bom này. Tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ được giao”. “Không được, tôi là đội trưởng, tôi sẽ đảm nhiệm trọng trách này”. Nhưng Phúc đã quỳ xuống trước mặt tôi, nói: “Đồng chí phải giao nhiệm vụ này cho tôi. Tôi còn trẻ, rủi có việc gì cũng nhẹ như lông hồng. Còn đồng chí, còn có cả một đàn con thơ dại, rủi đồng chí đi ai lo cho chúng nó?”... Lần ấy, Phúc đã phá được quả bom nhưng không trở về nữa, ở cái tuổi 19. Máu của Phúc, xương thịt của Phúc đã trộn lẫn, thắm đượm đất quê hương...”.
Uống nước nhớ nguồn
Dòng người lặng lẽ vào nghĩa trang dâng hương dưới tượng đài liệt sĩ. Tọa độ lửa năm xưa bây giờ đã được thay bằng màu xanh trù phú của ấm no hạnh phúc. Các chị, các anh vẫn sống mãi với quê hương như những bông sim tím lung linh trên đồi đá tím để bây giờ nhân lên giữa làng quê xứ Nghệ, giữa mảnh đất Đô Lương biết bao mùa vàng vượt lên giữa nắng lửa, bão giông. Mỹ Sơn, Nhân Sơn nói riêng, Đô Lương nói chung (nơi mảnh đất thiêng các anh, các chị nằm lại) là một vùng đất anh hùng, giàu truyền thống cách mạng. Ba Ra - Đô Lương, tiểu đội thép Truông Bồn và 3.800 người con của Đô Lương chiến đấu, phục vụ chiến đấu và hy sinh trên các chiến trường, trong tâm khảm mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân nơi đây là niềm tự hào, niềm tin thúc giục vươn lên trong sự nghiệp đổi mới.
 |
Tượng đài Chiến thắng Truông Bồn. Ảnh: internet |
Với phương châm “Dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, chỉ tính trong 3 năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Đô Lương đã tranh thủ sự hỗ trợ của tỉnh và Trung ương qua các chương trình dự án với tổng số vốn đầu tư hàng trăm tỉ đồng. Trong đó, ngân sách xã hội và nhân dân đóng góp 70%. Đến nay, toàn bộ đường giao thông nông thôn được bê tông hóa bảo đảm cho xe cơ giới các loại về đến tận thôn xóm, trong đó có 250km đường nhựa. 200km kênh mương nội đồng được bê tông hóa. Hệ thống trường học được xây dựng, có gần 30 ngôi trường được xây cao tầng. Ngành giáo dục Đô Lương nhiều năm liền được công nhận là đơn vị xuất sắc của tỉnh. Điện lưới đã về tận các gia đình. Hệ thống nghe nhìn đã được phủ sóng 32/32 xã, thị trấn trong toàn huyện.
Trong xây dựng và phát triển kinh tế, Đô Lương đã có bước chuyển dịch mạnh về kinh tế, cây trồng vật nuôi, mùa vụ; thực hiện hiệu quả một số chính sách đòn bẩy về kinh tế. Tổng sản lượng lương thực năm 2005 đạt 78.885 tấn, đến năm 2007 đã tăng lên 82.079 tấn. Bình quân đầu người đạt 700kg/năm. Giá trị sản xuất nông-ngư nghiệp tăng trưởng khá, bình quân hằng năm tăng gần 6%. Tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp có gần 3.000 hộ, thu hút hơn 5.000 lao động trong các lĩnh vực: Sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông-lâm sản; xây dựng các làng nghề thêu, dệt, tơ tằm, đồ mộc dân dụng... Năm 2005, toàn huyện có 25.500 hộ giàu và khá, đến năm 2007 đã nâng lên 32.500 hộ. Số hộ nghèo giảm hẳn. Thực hiện mục tiêu kinh tế của Đại hội X của Đảng, Đô Lương đã thực sự đổi mới trên các lĩnh vực chính trị, đời sống kinh tế-văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh. Niềm tin trở thành nội lực giúp Đô Lương đi đúng, làm đúng trên con đường xây dựng huyện nhà giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng-an ninh.
Dẫu còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, cấp ủy, chính quyền và nhân dân trong huyện, trong tỉnh đã đóng góp quỹ tình nghĩa và hàng ngàn ngày công xây dựng tượng đài “Truông Bồn chiến thắng” và khu mộ nơi các liệt sĩ đã ngã xuống. Đảng bộ, chính quyền các cấp đã thường xuyên chăm lo làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa với các gia đình thương binh, thân nhân các liệt sĩ. Trong đó, Nghệ An có hơn 3.000 TNXP được trợ cấp một lần và hơn 4.000 TNXP được trợ cấp thường xuyên. Hơn 1.000 TNXP trong kháng chiến chống Mỹ đã được theo học ở các trường trung cấp, cao đẳng, đại học, trong số đó đã có nhiều đồng chí trở thành giáo sư, tiến sĩ; các nhà nghiên cứu khoa học, kỹ sư, thầy giáo uy tín.
Truông Bồn không chỉ là ký ức. Lòng dân xứ Nghệ và bà con trong cả nước mong muốn khu Di tích Văn hóa-Lịch sử Truông Bồn được xây dựng bền đẹp, hoành tráng, xứng đáng với sự hy sinh vô giá của các anh hùng liệt sĩ. Đồng chí Cao Đăng Vĩnh, Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An cho chúng tôi biết: Việc tôn tạo, xây dựng Khu di tích Truông Bồn phải mang nét riêng, dấu ấn riêng về ý chí kiên gan của đất và người trên một tọa độ lửa đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Di tích phải đạt được các yêu cầu về yếu tố lịch sử, văn hóa, du lịch và yếu tố tâm linh. Sau khi hoàn chỉnh các hồ sơ dự án tôn tạo, chúng tôi sẽ lựa chọn, trưng cầu ý kiến đóng góp của các ngành, các cấp và cán bộ, nhân dân trong tỉnh để dự án đạt kết quả cao nhất. Dự kiến, quần thể khu Di tích Văn hóa-Lịch sử và Du lịch Truông Bồn sẽ được xây dựng trên tọa độ lửa năm xưa với cung đường dài từ 4 đến 5km nằm trên địa bàn xã Mỹ Sơn. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay trong quá trình tôn tạo là việc tìm kiếm những vật thể và phi vật thể, nhất là những di vật liên quan đến 13 liệt sĩ trong tiểu đội thép trên tọa độ lửa ngày ấy.
Với niềm trân trọng và biết ơn, quân và dân trong cả nước, trong tỉnh đang hướng về đóng góp sức người, sức của; trong đó, 13 doanh nghiệp hội đồng hương tỉnh Nghệ An đã đóng góp hơn 3,1 tỉ đồng để góp phần xây dựng Khu di tích lịch sử Truông Bồn.
Kỷ niệm “40 năm - Truông Bồn chiến thắng” là một trong 3 sự kiện lớn trong năm 2008 của tỉnh Nghệ An. Để tôn tạo, xây dựng khu di tích Truông Bồn trở thành một địa chỉ đỏ rất cần có sự quan tâm của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là tuổi trẻ trong cả nước.
 |
Từ trái sang phải, từ trên xuống dưới: 11 liệt sĩ thuộc “Tiểu đội thép”: Trần Thị Doãn, Đoàn Thị Bốn, Hà Thị Đang, Phan Thị Dung, Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Thị Phúc, Đinh Thị Vinh, Hoàng Thị Nhung, Vũ Thị Hiền, Nguyễn Thị Hoài và hai liệt sĩ Cao Ngọc Hòa (Tiểu đội trưởng Tiểu đội 6), Trần Văn Hạp (Trợ lý tác chiến Đại đội TNXP 317) hy sinh trong ngày 31-10-1968 tại Truông Bồn. Ảnh tư liệu |
Thuận Thắng
Ký ức và niềm tin (Số 1)