Từ bao đời Đô Lương được nhiều người biết đến là vùng “đất gấm thêu hoa”. Hôm nay, trên những xóm làng chúng tôi đi qua, lúa hè thu uốn câu trải một màu vàng rộm. Và màu xanh của ruộng vườn cây trái quyện với những xóm làng mái ngói trù phú ấm cúng biết bao. Chiến tranh đã lùi xa nhưng mỗi tấc đất ở đây đều gắn với những chiến công của một thời oanh liệt.
Để huyết mạch Truông Bồn thông suốt
Nhân dịp kỷ niệm “40 năm - Truông Bồn chiến thắng”, chúng tôi may mắn được gặp những cựu chiến binh, thanh niên xung phong (TNXP), chiến sĩ dân quân bám đất, bám đường làm nên huyền thoại Truông Bồn. Một thời son trẻ, họ đã góp phần làm nên một “Truông Bồn thép” không khuất phục trước kẻ thù...
Thất bại thảm hại ở chiến trường miền Nam, năm 1964, giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Chúng huy động toàn bộ sức mạnh của không lực ngày đêm đánh phá các tuyến đường, cầu cống, kho tàng hòng cắt đứt nguồn chi viện của ta từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
 |
Chị Nguyễn Thị Thông, Tiểu đội trưởng tiểu đội 2 (ảnh tư liệu) |
Tọa độ lửa Truông Bồn dài hơn 5km, nằm trên tuyến đường chiến lược 15A và cũng là điểm thắt cổ chai hiểm yếu nhất của đường 7, đường 15A, đường 34 - huyết mạch giao thông của miền Bắc chi viện cho miền Nam nhằm tránh “túi bom” của giặc Mỹ ở phà Bến Thủy. Giặc Mỹ đã không bỏ sót một cung đường nào, huy động các loại máy bay chiến đấu hiện đại nhất, kể cả B52 đêm ngày giội bom, đạn. Gần 30.000 tấn bom, đạn các loại giội xuống huyện Đô Lương, thì phần lớn Truông Bồn phải hứng chịu, từ điểm nút đầu truông (dốc U Bò) đến điểm nút cuối truông (dốc Kỳ Lợn) cách nhau khoảng 5km, hầu như bị băm nát.
Để bảo đảm tính mạng cho nhân dân, cấp ủy, chính quyền, LLVT các xã Mỹ Sơn, Nhân Sơn... đã tổ chức sơ tán người già, trẻ em về các xã lân cận hoặc vào các thung lũng. Dọc tuyến đường huyết mạch, các đơn vị công binh D30, phòng không H22, đại đội TNXP 317, dân quân Mỹ Sơn và Nhân Sơn đã đào hàng trăm chiếc hầm trú ẩn cá nhân hình chữ A và hàng nghìn mét giao thông hào. Ở các đoạn khe suối, sườn dốc, TNXP, dân quân san lấp, ngụy trang thành nơi giấu hàng, giấu xe tránh máy bay địch. Tại các điểm cao, các đài quan sát đêm ngày bám, phát hiện máy bay địch. Các đơn vị pháo 37mm, 12,7mm, 57mm của bộ đội các trung đoàn 222, 232 và dân quân án ngữ, giăng lưới lửa đánh trả máy bay địch, yểm trợ cho các đơn vị làm nhiệm vụ thông đường, giữ vững huyết mạch giao thông. Xa hơn, trên các đồi Si, Rạng, Dùng... các đơn vị pháo phòng không tầm xa 224, 231 và đơn vị tên lửa 72 bí mật phục kích, đã ngăn chặn kịp thời hàng loạt đợt đánh phá ác liệt của máy bay địch. Trong những thời điểm căng thẳng nhất, các đồng chí Phan Trọng Tuệ, Đồng Sĩ Nguyên... đã đến kiểm tra động viên quân và dân trên địa bàn. Các đồng chí nhắc nhở: Truông Bồn là huyết mạch giao thông quan trọng. Nó như mạch máu trong cơ thể con người, chúng ta quyết không để ngừng chảy.
Ông Nguyễn Xuân Thỏa, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 317, xúc động cho tôi biết: “Đại đội 317, quân số chủ yếu là con, em ở huyện Yên Thành, được thành lập ngày 18-5-1965, có nhiệm vụ san lấp hố bom, chặt cây mở đường, bắc cầu qua khe suối, giữ vững tuyến giao thông huyết mạch thông suốt giữa hậu phương và tiền tuyến trên địa bàn Nghệ An. Với tinh thần “biến không thành có, biến khó thành dễ”, các tiểu đội đã vào rừng khai thác vật liệu bện thành quang gánh, dây pháo băng chuyền để khắc phục tình trạng thiếu hụt dụng cụ thông đường. Có thời điểm máy bay Mỹ đánh phá liên tục cả ban đêm, cán bộ, chiến sĩ phải dò dẫm định vị địa hình theo trí nhớ. Có khi, con đường vừa sửa chữa xong, chưa kịp thông xe thì máy bay địch tiếp tục đánh phá, lại phải làm từ đầu.
Mệnh lệnh từ con tim mỗi chiến sĩ TNXP là thông đường trong mọi tình huống. Các anh, các chị mặc áo trắng đứng thành hàng hai bên đường, cách nhau 3-4 mét, làm cọc tiêu sống dẫn xe tránh hố bom và bom nổ chậm. Chỉ tính trong năm 1968, đã có gần 300 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị TNXP, trung đoàn 222 và hơn 100 dân quân hai xã Mỹ Sơn và Nhân Sơn ngã xuống mảnh đất Truông Bồn. Hàng vạn ngày công với bao mồ hôi, xương máu đã đổ xuống để có hàng triệu mét khối đất, đá được đào đắp cho huyết mạch Truông Bồn thông tuyến, cho hơn 91.000 lượt xe cơ giới vận tải chở vũ khí, lương thực và bộ đội vào các chiến trường.
Những người con bất tử
“... Chúng tôi thường gọi tiểu đội 2 (Đại đội 317) do chị Nguyễn Thị Thông chỉ huy là Tiểu đội thép, bởi các chị đã xây dựng thành một tập thể có ý chí chiến đấu rất cao: Còn một giờ ở đơn vị là còn một giờ ra trận địa; Đường chưa thông không tiếc máu xương; Sống bám cầu, bám đường - chết kiên cường dũng cảm...” - Ông Thỏa kể. Trên các tọa độ lửa, Tiểu đội thép đã phá, tháo gỡ giải phóng an toàn hàng nghìn quả bom bi. Nhiều đêm, trong những thời khắc nguy hiểm nhất, tiểu đội đã giành về phần mình việc cứu hàng, cứu xe, làm cọc tiêu sống giữa ngầm cho xe qua dưới làn bom đạn của địch.
Trong ngày gặp mặt, Thiếu tá Nguyễn Văn Đức, nguyên Đoàn trưởng Đoàn pháo cao xạ Đống Đa, nắm chặt bàn tay gầy guộc của chị Thông, nhắc lại những kỷ niệm ngày đơn vị vượt Truông Bồn vào chiến đấu ở phía nam khu 4: “Trong chiến tranh chúng mình “gặp nhau lần nào cũng vội”, nhưng với cánh lính phòng không chúng tôi, lần vượt truông thật hạnh phúc lắm chị Thông ơi! Chỉ có ba ngày với Truông Bồn nhưng dường như chúng tôi được rèn bằng cả một đời quân ngũ. Trong khoảnh khắc mong manh giữa cái sống và cái chết, chính tiểu đội nữ TNXP của chị đã truyền lửa nhiệt huyết cho cán bộ, chiến sĩ đơn vị chúng tôi thêm vững tin bước vào làm nhiệm vụ chiến đấu trên tuyến lửa khu 4...”.
Anh Đào Thắng, Đại tá, nhà văn quân đội, nguyên là trinh sát tinh tường của đoàn Đống Đa ngày ấy, không giấu nổi xúc động nhớ lại đêm đầu tiên hành quân đến Truông Bồn. Giữa bao hiểm nguy, ác liệt các cô TNXP vẫn lạc quan, tươi trẻ nhường nào! Trong đêm, một cô gái giơ cao chiếc khăn màu trắng ra hiệu cho đơn vị dừng lại. Rồi có mấy cô bám bên cửa ca bin: “Chưa vượt truông được mô, nguy hiểm lắm. Các anh phải trú ẩn an toàn rồi tính phương án vượt truông”. Theo hướng dẫn của các cô, cả đơn vị phải dừng lại ngụy trang, trú ẩn ở phía tây truông. Bước chân các cô nhanh thoăn thoắt, miệng ríu ran hướng dẫn đơn vị ngụy trang, giấu xe, pháo an toàn. Đêm nào các cô cũng thức giải phóng bom bi, bom từ trường, rồi san lấp hố bom. Đêm thứ ba, sau khi tiểu đội nữ TNXP cùng với lực lượng dân quân thu nhặt hơn 1.000 trái bom bi và san lấp toàn bộ mặt đường, chị Thông - tiểu đội trưởng, chị Doãn - tiểu đội phó cùng với các cô Tâm, cô Vinh, cô Dung... gương mặt ai cũng vui, cười nói, gọi nhau lảnh lót như chim họa mi giữa tọa độ lửa. Khi đơn vị vượt truông, các cô cầm những chiếc khăn màu trắng, đứng hai bên đường làm hiệu, nhắc: “Các anh nhớ căn đúng tim mà đi, không được đi chệch, vướng bom nổ chậm đó. Đánh xong giặc Mỹ nhớ về với Truông Bồn, về với chúng em nhé!”.
Ông Thỏa không quên có đêm khi đoàn xe vận tải của bộ đội nối dài 2km từ Truông Bồn đến Cầu Om. Lũ giặc trời lại thi nhau thả pháo sáng, rồi giội bom. Có mấy xe bốc cháy, cả tiểu đội cùng lái xe xông vào dập lửa cứu hàng, cứu xe suốt từ 21 giờ tối đến 3 giờ sáng hôm sau. Mệt, mắt thâm quầng, bụng đói lả, nhưng trên gương mặt các chị ai cũng vui, vì đã hoàn thành nhiệm vụ. 4 giờ sáng ngày 31-10, với tinh thần chuẩn bị cho đợt vận tải hàng hóa lớn vào chiến trường, chị em chỉ ăn vội miếng mì luộc rồi bám mặt đường. Và thời khắc kinh hoàng đã đến: Chỉ lấp nốt một hố bom nữa là cả đơn vị hoàn thành nhiệm vụ thông đường, nhưng 5 giờ sáng, bất ngờ có tiếng còi báo động, máy bay Mỹ xuất hiện. Cả đại đội đã vào hầm trú ẩn, chỉ còn tiểu đội của chị Thông làm nhiệm vụ trực chiến, đang phải kiểm tra hàng, xe đã an toàn chưa rồi mới lần lượt xuống hầm. Chị Thông nhớ lại: “Quan sát thấy các em Tâm, Vinh, Doãn... là những người cuối cùng nhảy xuống hầm tôi mới quay lại xốc khẩu AK trên vai nhảy xuống theo. Máy bay giặc gầm rú xé cả đất trời. Một loạt bom đổ xuống làm chao đảo cả lòng đất. Đất đá vùi lấp trên đầu, chân Vinh còn giậm lên chân tôi. Tôi cố sức rút tay để tìm em, nhưng không thể nào rút ra được. Tôi thấy ngột ngạt, người nặng như chì, chìm nghỉm trong bóng tối và không biết gì nữa”.
 |
Mẹ Thởm (ảnh Thuận Thắng) |
Tôi đến thăm Mỹ Sơn, cái làng gắn bó với “Tiểu đội thép” Truông Bồn. Tại vùng quê đầy ắp thương nhớ này, các cụ, các mẹ kể lại biết bao chuyện về sự linh thiêng của các liệt sĩ Truông Bồn. Mỗi lần chị Thông về với Mỹ Sơn, trong lòng lại quặn thắt nỗi đau: “Các em ơi! Bây giờ các em ở đâu?”. Ông bà Thởm là những người từng gắn bó với tiểu đội, với hạnh phúc đời chị trong những năm gian khó nhất của cuộc chiến tranh. Ông Thởm gạt vội những giọt nước trên khóe mắt nhăn nheo, nhớ lại: “Trận bom vừa dứt, dân quân Mỹ Sơn tổ chức đi tìm kiếm cứu nạn. Thấy một nòng súng trồi trên mặt đất, họ lắc lắc thì nghe có tiếng rên dưới lòng đất. Từ từ bới lên thì thấy một mái tóc nhuốm đất đỏ. Đó là chị Thông. Còn anh Cao Ngọc Hòa, Tiểu đội trưởng tiểu đội 6 thì đã hy sinh. Chị Thông được đưa vào nhà ông bà Thởm cấp cứu... Suốt mấy ngày liền, dân quân Mỹ Sơn, lực lượng TNXP và bộ đội chủ lực đóng quân trên địa bàn đã dùng mọi phương tiện đào bới, tìm kiếm nhưng chỉ tìm được 5 chị còn nguyên vẹn, còn lại thân thể đã hòa quyện với đất...”.
Chị Thông áp mặt vào ngực bà Thởm. Đã 40 năm, hình ảnh 11 em gái thương yêu trong tiểu đội hãy còn nguyên vẹn trong tim chị. Chị vẫn nhớ như in ngày ấy, ông bà Thởm có 3 người con thì cả 3 đều lên đường nhập ngũ. Con trai đầu của ông bà là anh Nguyễn Trọng Thởm chiến đấu tận Nam Bộ, đi biền biệt không có thư về. Cả tiểu đội nữ của chị là nguồn động viên lớn đối với ông bà. Mỗi bận đi mở đường, san lấp hố bom mệt lả, nhưng về tới nhà là cả lũ sà bên bà Thởm nài nỉ: “Mẹ ơi có thư anh Thởm gửi về không hả mẹ? Thống nhất nước nhà anh về mẹ nhận con làm dâu của mẹ nhé!...”. Nhao nhao một hồi rồi mấy chị em lăn ra ngủ từ lúc nào không biết. Nhắc đến những kỷ niệm xưa, hai người phụ nữ, một như mẹ, một như con, ôm nhau giàn giụa nước mắt.
Tim chị quặn thắt khi nhắc đến Nguyễn Thị Tâm (quê ở Hợp Thành, Yên Thành, Nghệ An). Tâm và Cao Ngọc Hòa (quê ở xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) tiểu đội trưởng tiểu đội 6 yêu nhau mấy năm trên tọa độ lửa. Họ đã chuẩn bị các thủ tục để về quê tổ chức lễ cưới. Sáng 31-10-1968, Hòa ra cung đường sớm hơn ngày thường cùng tiểu đội nữ thông đường và định nếu xong sớm thì xin phép đón Tâm cùng về quê. Chỉ sau lúc Tâm bẻ nửa miếng bánh mì luộc đưa cho Hòa chừng 30 phút, bom Mỹ đã giết chết họ... Các em Trần Thị Doãn (quê ở Sơn Thành), Hà Thị Đang, Hoàng Thị Nhung (Phú Thành) và Phan Thị Dung (Hợp Thành, Yên Thành) vừa nhận được giấy báo vào học các trường trung cấp chuyên nghiệp trước sáng 31-10 mấy ngày. Chị Thông vẫn nhớ như in: Nhận được giấy báo đi học các em vui lắm, rối rít khoe. Cả tiểu đội, đại đội chúc mừng. Đại đội đã làm các thủ tục và mổ lợn tổ chức liên hoan tiễn các em. Suốt đêm 30-10, ai cũng thức, tâm sự, trao cho nhau những kỷ vật. Sáng 31-10, dù được nghỉ nhưng các em vẫn xin ra hiện trường làm việc để tạm biệt đồng đội thân yêu, tạm biệt tuyến đường huyết mạch. Nhưng bom Mỹ đã không cho các em thực hiện ước mơ đến với giảng đường...
Thuận Thắng (Còn nữa)