QĐND Online - Ai đó đã từng nói “Nạn nhân của chất độc da cam là những người nghèo nhất trong những nghèo, đau khổ nhất trong những người đau khổ”. Dù biết rằng, tất cả chỉ là tương đối, song quả thực những nạn nhân da cam mà chúng tôi từng gặp thì điều đó là sự thật, một sự thật nghiệt ngã.
 |
|
Chất độc da cam tàn ác đã lấy đi thân thể lành lặn, tâm hồn trong sáng của Đinh Thị Hiền (24 tuổi, thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa)
|
Kỳ I: Nước mắt người chiến thắng!
Trong cuộc chiến cứu quốc của dân tộc, những người con mang dòng máu Lạc Hồng đã sống, chiến đấu bằng tất cả sự can trường và lòng dũng cảm; mưa bom, lửa đạn không làm họ gục ngã. Nhưng khi đất nước hoàn toàn giải phóng, họ lại rơi vào tột cùng nỗi đau, nỗi đau mang tên da cam...
Thời hoa lửa và “mầm bi kịch”
Chúng tôi đã không ít lần tiếp xúc với các nạn nhân da cam dioxin. Mỗi con người, mỗi mảnh đời là những trang nhật ký thời hậu chiến thấm đẫm nước mắt. Trong câu chuyện của họ, ngoài những ký ức về một thời hoa lửa còn có cả sự cay đắng về nỗi đau mà kẻ thù gây ra.
Gặp ông Hoàng Minh Thoán (61 tuổi, thôn Cam Hiệp, xã Cam Phước Đông, TP. Cam Ranh, Khánh Hòa) giữa một chiều nhạt nắng. Trong giọng nói yếu ớt, khò khè vì chứng bệnh viêm phổi và suy tim, ông trải lòng mình, hồi tưởng về một thời đã qua. Ông kể: “Chiến trường thời đó ác liệt lắm, mỗi ngày có hàng chục cuộc công kích của quân Mỹ nhằm phá vỡ trận địa vững chắc của quân và dân ta. Cứ vào sáng sớm hay chiều tối, từng tốp máy bay vận tải của Mỹ lại phành phạch trên đầu. Từ sau cánh máy bay, chúng phun ra những giải sương mù trắng đục bay là là trên những ngọn cây, nương rẫy. Chúng tôi vẫn chiến đấu và sinh hoạt trong những làn sương mù ấy…”. Kể đến đây giọng ông chợt trùng xuống. Tiếng thở dài làm mạch cảm xúc bị đứt quảng. Uống ngụm trà, ông tiếp tục câu chuyện với giọng đầy chua xót: “Khi đó, nào ai biết đấy là thứ chất độc chết người. Hàng ngày chúng tôi vẫn lấy rau tàu bay, mì (sắn) và bắp mà ăn, lấy nước suối để tắm, giặt, rửa mặt, thậm chí nhiều người vục ngay nước suối mà uống ừng ực…”.
Nghe ông kể về thời đã qua, chúng tôi thấy được trong ông đang bừng lên niềm tự hào về một thời lửa đạn. Nhưng cũng qua những lời trần tình của ông để chúng tôi hiểu thế nào là nỗi đau sau ngày chiến thắng.
Thời ấy, khi quân đội Mỹ rải chất độc da cam xuống chiến trường miền Nam, đa phần bộ đội của ta đều không biết được hậu họa khôn cùng mà nó gây ra. Họ vẫn vô tư sống và chiến đấu trong vùng bị nhiễm độc. Cũng như ông Thoán, cựu chiến binh Trần Thị Liên (68 tuổi, phường Lộc Thọ, TP. Nha Trang, Khánh Hòa), từng tham gia chiến đấu, mở đường, tải đạn và lương thực vào chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng cũng là một trong những nạn nhân như thế. Ngày ấy, bà đã sống trong những “làn sương trắng đục” nên giờ đây mái tóc của bà gần như đã rụng hết, chỉ còn lơ thơ vài sợi đã bạc trắng.
Bà Liên hồi tưởng: “Tuần trước chúng rải thứ sương mù đó xuống, cây cối vẫn còn xanh tốt. Tuần sau quay cây đã trụi lá để lộ ra những dải đất, đá trơ trọi. Cây mì, cây bắp rụng lá, héo vàng, mọi người cứ nhổ bật gốc lên bẻ củ, bẻ bắp về ăn. Sau đấy bị hắt hơi, sổ mũi, nhức đầu nhưng chẳng ai nghĩ mình đã bị nhiễm chất độc, mọi người chỉ nghĩ đó là cảm cúm bình thường. Thậm chí có nhiều người bị chất độc rải lên đầu làm rụng tóc, nhưng cũng chỉ nghĩ do chứng bệnh sốt rét rừng gây ra. Cứ thế chúng tôi vẫn chiến đấu và chiến thắng tất cả”…
Chiến thắng nào cũng chứa đầy nước mắt, gặp những con người từng đi qua chiến tranh, chúng tôi phần nào hiểu rõ hơn những hào khí và những mất mát của cả dân tộc. Thời đó, với họ ai cũng mang trong mình lòng căm thù giặc không nguôi. Mỗi bước tiến là một lần phải đổ máu, đồng đội đi trước ngã xuống, người sau tiến bước. Cứ thế, họ chiến đấu cho ngày mai độc lập. Và không một ai biết rằng thứ chất độc da cam quái ác đã ngấm vào máu thịt mình và hậu quả là nỗi đau về tinh thần và thể xác trong chính cơ thể các thế hệ sinh ra trong thời “không tiếng súng”.
 |
|
Cuộc sống của những đưa con ông Hoàn Minh Thoán không bao giờ biết “buồn”, bởi các con ông chỉ biết cất lên cười ngây dại
|
Nỗi đau!
Những con người như ông Hoàng Minh Thoán, đáng lẽ ra sau ngày đất nước hoàn toàn độc lập, ông phải được tận hưởng niềm hạnh phúc của cuộc sống đời thường, nhưng chỉ vì chất độc da cam mà phần đời còn lại của ông phải nếm trải tận cùng nỗi đau. Trong những năm tháng tham gia kháng chiến, ông đem lòng yêu thương cô y tá Nguyễn Thị Chí (cùng đơn vị). Năm 1973, đơn vị đứng ra làm đám cưới cho 2 người. Những đứa con của họ cứ lần lượt ra đời, đem theo đó là những hy vọng tươi sáng, tràn đầy hạnh phúc của người được làm cha, làm mẹ. Tuy nhiên, niềm vui được làm cha, làm mẹ chưa được bao lâu, đứa con trai đầu lòng Hoàng Minh Trung (sinh năm 1973) ra đời chưa đầy 1 tháng tuổi thì phát bệnh. Rồi đến người con thứ 2, thứ 3, thứ 4 cũng mang những mầm bệnh tật ấy.
Sự phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin đã thấm vào máu thịt ông. Mỗi lần vợ ông sinh con là một lần ông thót tim, chờ đợi đứa con lành lặn ra đời. Nhưng nghiệt ngã thay, các con ông vừa sinh ra, đứa thì vài tháng tuổi đã bị bệnh hiểm nghèo, lên cơn co giật, teo cơ, thần kinh điên loạn… còn đứa sống thì cũng chẳng lành lặn. Trong căn nhà nhỏ của vợ chồng ông Thoán, những đứa con lăn lóc, sống cuộc sống thực vật. Căn nhà như một “trại tâm thần” thu nhỏ. Tất cả 4 đứa con chẳng biết đến “buồn” là gì. Bởi từ sáng đến tối chúng chỉ biết cất lên những tiếng cười ngây dại. Hàng ngày, ông chăm sóc các con mà xót xa đến tột cùng.
Từ ngày được làm cha đến nay, chưa bao giờ ông Thoán được nghe các con gọi một tiếng: Bố ơi! Trong nỗi đau xé ruột, ông cay đắng tự trấn an: “Bi thảm là thế, nhưng dù sao đó cũng là máu thịt của mình rứt ruột sinh ra. Thương con, tôi cố nén nỗi đau để gánh vác trọng trách gia đình. Giờ tuổi đã cao, sức đã yếu, cộng thêm các chứng bệnh do chất độc da cam hủy hoại nên không còn đủ sức để lao động kiếm tiền nuôi các con; tất cả chỉ trông chờ vào các khoản trợ cấp của Nhà nước”.
Chung số phận ấy, ông Nguyễn Văn Thụ (phường Cam Nghĩa, TP. Cam Ranh, Khánh Hòa) cũng từ ngày, từng giờ nén nỗi đau tinh thần và thể xác để chăm sóc 3 người con ngây dại vì chất độc da cam gây ra. Ông Thụ cho biết: “Đau xót lắm! Ngay đến cả bố mẹ mà các con tôi vẫn không nhận biết được. Mỗi lần lên cơn là Thành (con trai ông) đập phá đồ đạc. Thậm chí đánh bất kỳ ai mà Thành bắt gặp. Tích cóp mãi, gia đình mới mua được cái tủ mới, nhưng chưa đầy 1 tháng đã bị Thành đâp vỡ”. Giờ đây, mỗi tuần các con ông Thụ phải uống 2 lần thuốc để cắt cơn hoảng loạn. Ngoài khoản tiền do Nhà nước trợ cấp, cả gia đình 6 miệng ăn đều trông chờ vào gánh cháo còm cõi mỗi phiên chợ sáng, chiều để trang trải thêm cho cuộc sống và có thêm tiền mua thuốc cho các con. Cứ thế, cuộc sống trôi đi cùng nỗi đau thầm lặng.
|
Toàn tỉnh Khánh Hòa có 9.151 người bị phơi nhiễm chất độc da cam. Trong đó, có 2.049 người do trực tiếp tham gia kháng chiến, 770 người là con đẻ của người trực tiếp tham gia kháng chiến, 4.017 người là dân thường và 2.315 người là con đẻ của dân thường. Hàng trăm người đã chết do các căn bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có khoảng 1.500 nạn nhân đang được hưởng trợ cấp của Nhà nước.
|
Từng hoạt động trong những vùng bị ảnh hưởng chất độc da cam của Mỹ, ông Đinh Văn Nhung (74 tuổi, thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) đâu ngờ di chứng cuộc chiến nặng nề và tàn khốc đến không thể tin nổi. Ngày hòa bình thống nhất, ông về lập gia đình với bà Lê Thị Phương, người bạn gái quen biết từ thời đi thanh niên xung phong những tưởng sẽ bắt đầu cuộc sống hạnh phúc trong hòa bình. Nhưng niềm hạnh phúc ấy bị chen vào nỗi đau da cam. Thứ chất độc tàn ác ấy đã lấy đi thân thể lành lặn, tâm hồn trong sáng của người con gái tên Đinh Thị Hiền. Bà Phương nói: “Từ ngày sinh con ra, nó cứ nằm im lìm như khúc gỗ, đói không biết đòi ăn, khát không biết đòi uống, ngay cả đi vệ sinh cũng nằm tại chỗ”. Vất vả là thế, nhưng 2 ông bà vẫn cố gắng săn sóc, đút từng thìa cháo, chén thuốc cho con. Hàng đêm, ông bà phải thay nhau thức trông cho con ngủ, sợ nửa đêm Hiền lên cơn co giật, rớt xuống giường.
Đối với những người làm cha, dù nỗi đau khôn cùng nhưng họ vẫn kiên cường chịu đựng. Còn với những mẹ, nỗi đau ấy dễ khiến trái tim mềm yếu bị tổn thương dai dẳng. Chiến tranh kết thúc, bà Trần Thị Liên trở về đời thường ngỡ sẽ được hưởng những tháng ngày hạnh phúc trong hòa bình, nhưng bà đâu biết chất độc da cam của Mỹ đã ngấm vào máu thịt để lại di chứng nặng nề nơi đứa con trai Nguyễn Thanh Bình khiến nỗi đau kiếp người lên đến tột cùng. Năm nay, Bình đã bước sang tuổi 21 - lứa tuổi đẹp nhất của đời người với nhiều ước mơ, hoài bão và những dự định tương lai. Thế nhưng, tương lai đối với Bình chỉ là những tháng ngày dài vật vã với bệnh tật trên giường, tay, chân co quắp. Tất cả sinh hoạt của Bình đều phải dựa vào sự chăm sóc của người mẹ 68 tuổi và người cha già 87 tuổi.
Kéo vạt áo chấm những giọt nước mắt trên khuôn mặt nhăn nheo, dúm dó và hốc mắt sâu thâm quầng, bà Trần Thị Liên nghẹn ngào: “Ngày mới sinh, Bình rất kháu khỉnh và khỏe mạnh, thế nhưng được hơn 18 tháng thì phát bệnh. Đi khám, bác sĩ kết luận con là nạn nhân của thứ chất độc da cam/dioxin, tôi bàng hoàng, suy sụp về tinh thần…”.
Từ ngày đó đến nay, Bình phải sống chung với những cơn co giật. Giờ đây, niềm vui và hy vọng lớn nhất của gia đình bà Liên là cô con gái lành lặn đang làm việâc ở TP Hồ Chí Minh và sự quan tâm chia sẻ giúp đỡ của bà con lối xóm là nguồn động viên, an ủi lớn để gia đình bà có thêm nghị lực vững vàng hơn trong cuộc sống.
Chiến tranh đã lùi xa, những nỗi đau vẫn còn đó. Nó đang từng ngày, từng giờ vắt kiệt sức sống trên các cơ thể còm cõi, những tâm hồn héo hon. Nỗi đau da cam sẽ còn đeo đẳng không biết đến bao giờ. Và trong nhiều gia đình, thời gian và nước mắt, sự lo lắng và nỗi đau da cam vẫn trộn lẫn với nhau. Ở họ, vẫn đang cần lắm sự quan tâm, chia sẻ của cộng đồng và xã hội.
Bài, ảnh: Văn Giang
Kỳ II: “Sức sống” diệu kỳ!