(Tiếp theo kỳ trước)
Thùng nước thứ hai lập tức được múc cạn. Lớp ni lông lót đáy thùng cũng được lột lên. Nhưng đúng là dưới đáy thùng không có gì. Song mép ni lông viền quanh miệng thùng được cuốn dày độn những gói nhỏ, bằng quả cà, quả mận. Trong đó cũng là hê-rô-in và ma túy tổng hợp.
Võ Trọng hỏi: Tại sao hai thùng nước lại có hai cách cất giấu hàng khác nhau? Nguyễn Nàm quỳ xuống, lạy như tế sao. Võ Trọng nắm vai áo kéo hắn đứng dậy. Hắn đứng lảo đảo, hai tay buông xuôi, đầu cúi gầm, mắt liếc ngang lạnh như mắt rắn. Dáng đứng của kẻ gặp thất bại, sụp đổ trong cuộc đời không còn nơi bấu víu. Hắn lầu bầu, hụt hơi sau:
- Thưa ông, dưới một trăm tép, con để thùng riêng, nơi lấy bán hằng ngày cho khách – nói xong câu đó đất dưới chân lão như sụt lở, trước mặt hắn rối bời những vòng đen định mệnh... Đến lúc này hắn mới nhận ra rằng ma túy, hê-rô-in giống như bóng đèn nghìn oát, còn hắn là con thiêu thân bị ánh sáng quyến rũ lao vào và giờ đây đang giãy giụa trước khi chết.
- Ông đứng dậy – Võ Trọng nói. Giọng anh không gay gắt. Anh chỉ ghế cho hắn ngồi - ông Nàm, chắc ông đã biết luật pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, người vận chuyển, tàng trữ 100 gam hê-rô-in trở lên phải tội chết. Chiểu theo luật thì ông đã xứng đáng mấy trăm lần tội chết. Chúng tôi sẽ chuyển ông tới cơ quan pháp luật để họ thực hiện điều ấy...
Rụt cổ như con rùa bị nện vào mai, hắn nuốt hơi, cuống họng trồi lên, trụt xuống. Hắn thè lưỡi như con thạch sùng liếm đôi môi khô nẻ. Mặt hắn như tượng đất vô hồn. Võ Trọng bắt được cái thần của hắn rồi. Anh hiểu bản năng của loài sinh vật là tham sống, đối với bọn tội phạm lại càng sợ chết. Anh đã chứng kiến những tên tội phạm ma túy bị hành quyết trước buổi rạng đông rồi. Thời điểm đó giữa tối và sáng mọi vật lờ mờ không rõ nét, mọi hình ảnh lòa nhòa không ấn tượng, mọi cảm nhận, ý thức trong cõi mộng mị mông lung, tất cả đều nhạt nhòa hư ảo. Những lo âu phiền muộn, những yêu thương, thù hận chưa tác động vào thần kinh con người... ấy vậy mà những tên tử tù phạm tội buôn bán ma túy, hê-rô-in đứng trước pháp trường, băng đen đã bịt mắt rồi mà mồm vẫn gào lên xin được sống dù chỉ thêm một ngày, một giờ nữa thôi. Chúng thèm sống, sợ chết thế đấy. Tâm trạng của hắn cũng thế thôi. Khi vạch cho hắn ta cái chết đã bày ra trước mắt thì...
- Ông Nàm, ông tính thế nào trước tội tày trời của ông?
Hắn vẫn cúi gầm mặt. Hai mép hắn trễ xuống chảy nước bên khóe chứng tỏ đã sợ hãi, mệt mỏi. Một lúc sau hắn nói lầu bầu như trâu ăn cỏ nước, không thành tiếng. Võ Trọng tính đến nước cờ “Lạt mềm buộc chặt”, ông cha ta dạy rồi, muốn trị lửa thì phải dùng nước...
- Bây giờ thì thế này, ông nghe đây, chúng tôi có cách giúp ông tạo ra những tình tiết có thể giảm nhẹ được phần nào tội lỗi cho ông. Ông thấy thế nào?
Như người mơ ngủ choàng dậy, đôi mắt hắn ánh lên sự cầu khẩn.
- Xin các ông, lạy các ông ...
Võ Trọng chỉ thị cho các chiến sĩ đặc nhiệm đưa hắn về phòng làm việc. Anh vào việc ngay:
- Ông muốn được có tình tiết giảm nhẹ tội chỉ có một con đường ... Ông phải làm theo lệnh của tôi. Ông nghĩ thế nào?
- Vâng, các ông bảo em làm gì, em cũng xin vâng, miễn là em được sống! - Hắn nhanh nhẩu xưng bằng em.
- Ông phải khai báo rõ ràng những điều chúng tôi cần biết. Ông phải thật lòng làm những việc chúng tôi giao, ông làm việc dưới sự kiểm tra của chúng tôi.
- Vâng, em còn gì để mà giấu nữa đâu.
- Ông mang hàng từ đâu về?
- Thưa ông, em mang từ bên Xao, bên Pẹ về. Số hàng đó không phải của em...
- Của ai?
- Thưa ông, của ông Trần Đỉnh. Ông ta là ông trùm. Ông ta thuê em mang về, nếu trót lọt, cất giấu an toàn, em được ông ấy trả công.
- Ông được trả bao nhiêu mỗi chuyến?
- Mỗi chuyến, em được nhận mười nghìn đô. Vì ông ấy mua hàng tận gốc, em bán tận ngọn giúp ông ấy nên có lời to.
- Ông đã đưa hàng qua biên giới mấy chuyến?
- Em không nhớ. Nhưng theo kiểu hôm nay, đây là chuyến thứ ba.
- Ông có biết tới đây, Trần Đỉnh thuê những ai chuyển hàng về và chuyển bằng cách nào không? Ông phải nói thật, thái độ, lời nói của ông lúc này sẽ quyết định tính mạng ông.
- Thưa ông, em chỉ được nghe lỏm đợt Tết này ông Đỉnh sẽ thực hiện “hai đường ba mũi”...
- Ông nói rõ hơn ...
- Thưa ông, thực tế em cũng không biết rõ kế hoạch đó là thế nào, nhưng em thấy có mấy người hàn, sửa ôtô, xe máy...
- Khi về bên này, ông có liên lạc gọi sang bên ấy không? Nếu gọi sang ông nói những gì, với ai?
- Thưa ông, ông Đỉnh dặn em rằng đưa hàng về lọt thì bấm máy gọi sang cho ông ấy biết.
- Gọi sang, ông nói những gì? Có tín hiệu gì để nhận nhau không?
- Dạ, không có tín hiệu gì mà chỉ nói rằng: “Nước Nậm Tuồng vẫn chảy”. Còn nếu bị biên phòng chặn bắt thì em nói: “Đèo Keo mưa tắc đường”.
Võ Trọng nhìn thẳng vào mặt lão ta “Một tên buôn ma túy gian manh, nanh nọc đến nước ấy mà lúc sa cơ lại nhũn nhặn như con mèo thiến thế này có đáng tin không? Dân gian đã nói rồi đừng tin con “ca ve”, đừng nghe thằng buôn ma túy kia mà”.
- Ông phải cam đoan bằng mạng sống của ông về những điều ông vừa nói.
- Vâng, giờ thì mạng sống của em nằm trong tay các ông rồi, em còn gì để mà dối trá nữa, các ông cho sống, em được sống, các ông bảo chết em đành chịu – miệng hắn ta lại leo lẻo.
- Tôi còn cần ông những việc khác nữa. Nhưng ông phải làm ngay việc này. Máy điện thoại của ông đây, gọi về bên ấy số bao nhiêu, ông đọc đi. Phải qua mã số gọi ra nước ngoài 00856... chứ. Tôi bấm, ông nói ngay sang bên ấy “Nước Nậm Tuồng vẫn chảy”...
- Dạ, em gọi ngay.
Vào trận đánh quyết định, Võ Trọng tập hợp các chiến sĩ đội đặc nhiệm, anh nói:
- Các đồng chí. Bọn tội phạm đang thách thức chúng ta với “Kế hoạch hai đường, ba mũi”. Chúng như những con thú quen rừng, chúng tinh quái, gian giảo. Bước đầu ta đã thắng lợi là giữ được rừng yên nên thú đã lộ mặt. Ta đã chủ động chọn điểm đặt bẫy để dử chúng vào. Anh nói rõ với chiến sĩ các phương án chiến đấu.
Anh nhắc đến những điểm phải chú ý trong phương án mở đường cho chúng đi qua cửa khẩu, tránh “sập bẫy” ở chợ biên giới, tránh nơi đông người vì chúng có vũ khí nóng, dễ manh động. Đội trưởng Lê Bắc, các chiến sĩ Trần Văn, Nguyễn Tiến... ngồi trước mặt anh. Họ nhìn anh, lắng nghe anh nói với ánh mắt gửi trọn niềm tin vào sự chỉ huy của anh.
Đôi mắt anh nhìn họ với cái nhìn bầu bạn, thân tình. Các chiến sĩ đều nghĩ về anh: Anh – người chỉ huy với họ là một. Bởi anh trưởng thành từ một chiến sĩ nuôi quân, làm tiếp phẩm, làm nhân viên trạm kiểm soát, người lính trinh sát biên phòng, người đội viên đội phòng, chống tội phạm... Anh sinh ra trên một vùng đất nghèo bên dòng Ngàn Trươi - Hà Tĩnh, lớn lên với củ sắn, hạt ngô. Anh lăn lóc với những tháng ngày xa nhà, làm thuê kiếm sống. Bóng dáng sự nhọc nhằn, khổ ải của quê hương thấp thoáng trên gương mặt anh, in đậm trong tính cách anh. Tính cách của con người ở vùng đất nghèo mà ông bà đã đúc kết: “Can đảm đến xả thân, trung thành đến quên mình, cần cù không quản ngại và ở với nhau như bát nước đầy...”. Võ Trọng có những thói quen trước những chuyến tuần tra, trước những buổi truy lùng, trước giờ xuất trận, anh ngắm nhìn các chiến sĩ của mình, anh nhìn khuôn mặt thông minh, quả cảm nhưng lại rất hiền hậu của Bắc; khuôn mặt có đôi mắt to sáng, cái nhìn hăm hở với chiến công của Văn, khuôn mặt dạn dày từng trải với sương gió, nước da như gỗ lim của Tiến... Những gương mặt đã cùng anh xông vào những nơi mười chết, một sống trong các chuyến đấu mưu, đấu súng với bọn tội phạm. Các chiến sĩ đã cùng anh coi đồn, trạm là mái nhà ấm của mình... Họ đã cùng anh quen thân cánh rừng biên cương này như quen thân vườn cây của xóm làng nhà mình. Họ nhớ từng gốc cây treo võng. Họ nhớ từng hang đá dày lớp rêu đã ngủ lại trong các chuyến tuần tra dưới lớp lá cây trải làm chiếu có chuột, rắn xanh, trăn đất cùng nằm, tối lớp lá còn xanh sáng ra máu đỏ. Máu của họ do vắt cắn đốt. Những điểm cao mù sương trên đồi Ba Mụ, trên đèo Keo Nưa đã mặn mồ hôi họ. Những bờ suối đầu nguồn dòng Ngàn Phố đã thấm máu đồng đội họ. Tai họ nghe hằng hà sa số tiếng côn trùng rền rĩ bốn phương tám hướng giữa đêm rừng mà vẫn lọc ra được tiếng của các loài khác nhau. Họ cùng anh thuộc lời dạy của Bác Hồ “giữ gìn Tổ quốc không ngại ngùng gian lao”. Vậy Tổ quốc gần gũi nhất với họ là cánh rừng này, con suối trên mảnh đất biên cương này. Nói yêu Tổ quốc là phải yêu ngay mảnh đất này. Tổ quốc và Bác Hồ giao cho họ – người lính Biên phòng – giữ bình yên là giữ mảnh đất này. Và, chừng nào họ cùng anh biết xả thân để giữ trọn vẹn sự bình yên đó thì chừng ấy họ mới thật sự xứng đáng là người chiến sĩ Biên phòng. Thầm nghĩ vậy, Võ Trọng nhìn các chiến sĩ đứng trước mặt anh lúc này, họ khác nào những cây gió bầu lừng lững giữa rừng biên cương. Cây gió bầu nào có xót đau trước sự xoi đục của loài sâu độc, phải tiết “máu” ra để chống chọi với sự sống còn thì cây đó sẽ hóa thành trầm, kỳ. Những chiến sĩ đặc nhiệm biên phòng cũng vậy thôi, có dạn dày trận mạc, có xót đau trăn trở trong vất vả gian truân thì mới sáng chói phẩm chất người chiến sĩ Biên phòng. Anh sẽ xếp các chiến sĩ đặc nhiệm đó như Lê Bắc, Nguyễn Tiến, Trần Văn... vào mũi chủ công trong trận đánh quyết định này...
(còn nữa)
TRẦN HỮU TÒNG
Kỳ 1: Cánh rừng hai vầng trăng
Kỳ 2: Cánh rừng hai vầng trăng