QĐND - Suốt hành trình chuyến đi “Thăm lại chiến trường xưa”, hàng chục lần tôi đã được nghe bài hát “Tình em gửi trọn con đường” của nhạc sĩ Đào Hữu Thi mà lần nào cũng thấy xúc động, ám ảnh. “Năm tháng quê hương lòng son sắt đợi chờ ngày thống nhất, em đã ra đi mở những con đường”. Tiếng bom rơi, đạn nổ và hình ảnh những chiến sĩ Trường Sơn mãi mãi tuổi 18, đôi mươi trên con đường huyền thoại hiện về qua dòng ký ức của những người trong cuộc…

Đường 20 Quyết thắng - máu trộn trên đường

Nằm ở phía tây rừng núi Quảng Bình, từ năm 1965, Đường 20 trở thành một tuyến đường chi viện chủ lực cho chiến trường. Xuất phát từ Phong Nha, xuyên đỉnh Trường Sơn, nối với đường 128, 129 dài 123km đến ngã ba Lùm Bùm (Lào), Đường 20 Quyết thắng đã đi vào huyền thoại của hệ thống Đường Hồ Chí Minh lịch sử. Máu của hàng nghìn bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã đổ trên con đường này. Tại bia tưởng niệm ở ngầm Trạ Ang, Đại tá Thái Sầm run run thắp hương và khấn: “Các đồng chí ơi! Tôi là Chính trị viên Đại đội 3 chúng ta đây. Các đồng chí còn nhớ không, ngày chúng ta mở Đường 20 ở khu vực Trạ Ang này, tôi đã đọc các đồng chí nghe tác phẩm “Bất khuất” của Nguyễn Đức Thuận và đơn vị đã tọa đàm về mục tiêu, lý tưởng, phát động học tập theo các tấm gương chiến đấu, hy sinh trong cuốn sách đó. Với tinh thần cách mạng và ý chí sắt đá của người chiến sĩ Trường Sơn, các đồng chí đã hy sinh oanh liệt vì nước. Hôm nay, trở lại đây, tôi vẫn như thấy các đồng chí bên cạnh tôi và cùng nhau đọc “Bất khuất”…”. Nén xúc động, dõi theo dòng nước từ ngầm Trạ Ang, cựu chiến binh Thái Sầm thủ thỉ với tôi: Cậu biết không, có những lúc chiến trường cần xăng, mà đường thì bị đánh không đi được, chúng ta phải vận chuyển xăng ngược dòng nước chảy qua chân trọng điểm này. Trong lúc vận chuyển, thì máy bay đến ném bom, làm vỡ thùng xăng, lửa cháy bùng bùng. Anh em bẻ cành cây, cởi cả quần áo dập lửa, có người ôm lấy thùng xăng. Máu của chiến sĩ ta hòa vào xăng, vào nước. Vần được 30 phi xăng lên phía trước thì 29 anh em đã không trở về…

Cụm trọng điểm A.T.P mùa khô 1970. Tranh sơn dầu của họa sĩ Đức Dụ.

Đến Km16, Đường 20, vừa bước chân xuống xe, nhìn thấy hang Tám Cô, nước mắt nhiều người đã vòng quanh. Chị Đặng Thị Hoa, nguyên là nhân viên Phòng Thiết kế, Cục Tham mưu Công binh, Đoàn 559 bày tỏ: “Lần nào đến đây tôi cũng không cầm được nước mắt. Hình ảnh 8 thanh niên xung phong và tiếng kêu cứu thảng thốt, vô vọng trong những ngày cuối cùng của các anh, chị luôn ám ảnh tôi”. Tiếng anh thuyết minh nhè nhẹ: “Nơi đây vào ngày 14-11-1972, bom Mỹ đánh dữ dội vào khu vực này, nơi có một đội thanh niên xung phong và một tiểu đội pháo đang làm nhiệm vụ. Địch bắn tên lửa làm sập lèn đá 100 tấn, lấp kín cửa hang. Trong hang lúc này có 8 thanh niên xung phong, 4 nam, 4 nữ đều quê ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Các anh, chị hầu hết đều ở tuổi 18-20. Ngay sau máy bay ngừng ném bom, đồng đội đã lao đến ứng cứu. Đơn vị còn dùng xe xích loại ATC.59 để kéo tảng đá khổng lồ trước cửa hang nhưng nhiều lần nổ máy mà tảng đá không nhúc nhích. Tiếng kêu cứu, kêu khát từ trong hang vẫn vọng ra. Mọi người dùng ống tuy-ô bơm nước, cháo qua khe đá hở vào hang, hòng kéo dài sự sống để tìm cách cứu nạn. Nhưng ngày rồi đêm, mọi nỗ lực đã trở nên vô vọng khi khối đá hàng trăm tấn kia vẫn nằm ì, bịt kín cửa. Mỗi lần tiếp thức ăn, nước uống, mọi người cố gắng cảm nhận sự rung động của ống tuy-ô để hy vọng sự sống trong hang vẫn còn. Đến ngày thứ 9, không còn tiếng kêu, ống tuy-ô cũng không còn rung động nữa, chúng ta buộc phải chấp nhận một sự thật đau lòng: 8 chiến sĩ đã hy sinh. Cho mãi đến năm 1996, việc khai quật cửa hang mới được thực hiện. Một đội công binh phải mất tới 59 ngày đêm ròng rã, sử dụng 700kg thuốc nổ mới phá được tảng đá oan nghiệt kia. Bên cạnh các bộ hài cốt, chúng ta còn thu nhận được nhiều di vật kèm theo. Từ đó hang được tôn tạo thành khu di tích”.

- 8 liệt sĩ hy sinh trong hang, có 4 nam, 4 nữ nhưng sao lại gọi là hang Tám Cô? Có người thắc mắc.

- Thực ra tên gọi đó đã có từ trước khi xảy ra sự kiện các liệt sĩ hy sinh trong hang. Ban đầu, công việc trên đoạn đường này hầu hết do các nữ thanh niên xung phong đảm nhiệm. Tại hang này, thường xuyên có 8 nữ thanh niên xung phong đến trú ẩn và nghỉ ngơi nên mọi người gọi là “hang Tám Cô”. Sau đó, do khối lượng và đòi hỏi của công việc nên ngoài số nữ còn có các nam thanh niên xung phong thực hiện nhiệm vụ. Tuy vậy, mọi người vẫn quen gọi là “hang Tám Cô” cho đến tận hôm nay - Anh thuyết minh giải thích.

Ngoài ngầm Trạ Ang, Km16 khu vực hang Tám Cô, trên Đường 20 này còn có rất nhiều “tọa độ lửa” khác, trong đó ác liệt nhất là hệ thống trọng điểm “A.T.P” nổi tiếng (tức là cua chữ A, ngầm Tê Lê và đèo Phu-la-nhích). Hệ thống này nằm sát biên giới giữa tây nam tỉnh Quảng Bình với đông nam tỉnh Khăm Muộn (Lào), dài khoảng 7km. Cua chữ A là đoạn đường leo quanh sườn núi gấp khúc, một bên là vách núi cao, một bên là vực thẳm, chiều dài khoảng 3km. Tiếp giáp đoạn cua chữ A là ngầm qua sông Ta Lê nước sâu và chảy xiết. Phía Nam sông là đèo Phu - la - nhích chạy men, vượt sang tây Trường Sơn, đổ về phía Lùm Bùm, giáp Đường 128. Mỹ sử dụng máy bay chiến lược B52 kết hợp với máy bay cường kích F105, F4 đánh suốt ngày đêm. Cuối năm 1968, Đoàn 559 tập trung lực lượng để giải tỏa trọng điểm A.T.P, khơi thông Đường 20. Để bảo đảm cho xe vượt khẩu an toàn đã có gần 200 cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong vĩnh viễn nằm lại nơi này. Tháng 3-1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi khảo sát đường Trường Sơn, đã tới thăm và nói chuyện với bộ đội và thanh niên xung phong Đường 20. Đại tướng xúc động: “Đường 20 Quyết thắng là một kỳ công, kỳ tích, kỳ quan do ý chí vì độc lập, tự do của chiến sĩ và thanh niên xung phong làm nên”.

Chuyện kể từ Nghĩa trang Trường Sơn

Nghĩa trang Trường Sơn, nơi yên nghỉ của hơn một vạn liệt sĩ, chói chang trong một buổi trưa đầy nắng và gió. Giữa mênh mang bạt ngàn bia mộ, có một cái gì đó nhoi nhói trong tim, nấc nghẹn trong cổ họng. Cảm giác mất mát, nhớ thương dâng đầy trong lòng những cựu chiến binh về bên đồng đội. Cô văn công Vũ Thúy Lành (Đội văn nghệ Sư đoàn 968 quân tình nguyện Việt Lào, Bộ đội Trường Sơn) nức nở bên phần mộ Đại tá Đặng Tính, Chính ủy Đoàn 559: “Thủ trưởng ơi! Hôm ấy ở chốt Pắc Xoòng cả đội chúng em được lệnh chuẩn bị đêm văn nghệ để đón thủ trưởng. Anh chị em chuẩn bị kỹ càng và hồi hộp chờ đợi người Chính ủy thân yêu của mình. Nhưng chờ mãi, chờ mãi mà không thấy thủ trưởng và đoàn đến. Sau đó, chúng em bàng hoàng nhận được tin xe của thủ trưởng đã bị trúng mìn và thủ trưởng đã mãi mãi không về. Bất ngờ và đau đớn quá!...”. Thiếu tướng Phan Khắc Hy, nguyên Phó tư lệnh Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn run run thắp hương lên mộ Chính ủy Đặng Tính, giọng ông bùi ngùi: “Cùng đi trên xe hôm ấy, còn có các anh Vũ Quang Bình, Chính ủy Sư đoàn 968, Nguyễn Xuân Yêm, Tham mưu phó Công binh, Bộ tư lệnh Trường Sơn, nhạc sĩ Trịnh Quý, một bác sĩ và chiến sĩ lái xe. Sự hy sinh của những con người tài năng, đức độ ấy, với bao dự định lớn lao còn dang dở là một tổn thất rất nặng nề của Bộ đội Trường Sơn”.

Anh hùng Nguyễn Viết Sinh và CCB Vũ Thúy Lành bên mộ Chính ủy Đặng Tính. Ảnh: Vĩnh Thăng.

Phía gần cuối dãy mộ với Chính ủy Đặng Tính là mộ của liệt sĩ, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Vân Liệu. Tiến sĩ Lê Thị Phương Thảo, nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị hành chính quốc gia khu vực 1, nước mắt lưng tròng, lặng lẽ đặt bông hoa trắng lên mộ người đồng đội, đồng hương của mình. Những kỷ niệm một thời hoa lửa như vừa mới qua thôi. “Tôi và chị Vân Liệu cùng quê Hà Nam. Mặc dù ở 2 huyện khác nhau, chị ở Kim Bảng, tôi Thanh Liêm nhưng nhà chỉ cách nhau chừng 3km. Hai chị em đều ở đơn vị thanh niên xung phong C452, bảo đảm giao thông tại khu vực cua chữ A, một trong các “tọa độ lửa” trên Đường 20 Quyết thắng. Ngày đó, địch tăng cường ném bom nổ chậm cỡ lớn, hủy hoại mặt đường, gây sát thương người và phương tiện. Muốn phá loại bom này, chiến sĩ cảm tử phải đặt thuốc nổ lên trên quả bom rồi kích nổ. Cách làm này, gỡ được bom nhưng mặt đường bị phá hủy rộng, rất tốn công sức, thời gian để lấp lại. Sau nhiều ngày trăn trở, chị Vân Liệu xin vào đội cảm tử, trực tiếp lấy thân mình thử nghiệm phương pháp phá bom mới. Thay cho đặt thuốc nổ ở trên, chị dùng thanh gỗ canh-ki-na khoét sâu dưới thân bom đặt bộc phá. Sức công phá của khối thuốc nổ đã nâng trái bom tấn lên khỏi mặt đất rồi mới phát hỏa đã không ảnh hưởng nhiều tới mặt đường. Sáng kiến của chị Liệu không chỉ bảo vệ được những cung đường mà cả sự an toàn xương máu của đồng đội, được phát động trên toàn tuyến thành phong trào “Học tập và noi gương Nguyễn Thị Vân Liệu phá bom nổ chậm”. Thật không may, vào ngày 27-5-1968, chị Liệu đã hy sinh tại Km3, Đường 18, Quảng Bình, sau một đợt B52 rải thảm. Hơn 40 năm đã trôi qua, nhưng trong tôi vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh của chị, một nữ thanh niên xung phong có giọng hát hay, gương mặt thanh tú, một “cây sáng kiến” của thanh niên xung phong Trường Sơn. Trước ngày hy sinh, chị còn gửi gắm lại: “Ước vọng lớn nhất của đời em là phá càng nhanh càng tốt những trái bom nổ chậm góp phần sớm đến ngày thống nhất đất nước. Nếu hy sinh, xin các anh tết cho em một vòng hoa bằng đá trắng đặt trên bia mộ…” - Chị Thảo xúc động kể. Một không gian trầm lắng, nghẹn ngào bên ngôi mộ của người nữ anh hùng. Các anh trong Ban quản lý nghĩa trang Trường Sơn nói rằng, mỗi ngôi mộ ở đây là một câu chuyện xúc động về tấm gương hy sinh của những người lính Trường Sơn. Hơn 1 vạn ngôi mộ là hơn 1 vạn câu chuyện như thế. Ở nghĩa trang có quy mô lớn nhất nước này, còn có cả những câu chuyện thuộc về thế giới tâm linh. Dẫu còn thực hư nhưng những câu chuyện tâm linh đó lại mang tính nhân bản sâu sắc và như nhắc nhớ một điều với những người đang sống: Các liệt sĩ đã chiến đấu anh dũng, đã nằm xuống nhưng các anh, các chị không bao giờ chết. Họ sống mãi trong lòng Tổ quốc và nhân dân…

---------

Kỳ 1: Huyền thoại một con đường

Kỳ 3: Chuyện ở Làng Ho và bản Na Phầu

Ghi chép của Trần Hoàng Tiến