 |
Nguyễn Bá Xuyến năm 1972 (ảnh chụp lại). |
“Xin phép anh cho em được kể lại câu chuyện kỳ diệu này, bởi những ai đã trải qua “mùa hè đỏ lửa” ở mảnh đất thiêng Quảng Trị đều sẽ hiểu, thông cảm và chia sẻ với anh. Em muốn các bạn trẻ biết thêm một câu chuyện tình yêu đậm chất huyền thoại của những con người đã anh dũng đi xuyên qua thử thách khắc nghiệt, khủng khiếp của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại...”. Tôi nói một hơi rất dài để thuyết phục người cựu chiến binh ấy. Anh ngồi yên lặng. Những mảng màu chiến tranh cuồn cuộn hiện về...
Kỳ 1: Đêm trinh sát cuối cùng Ngày hạnh ngộ! Họ gặp lại nhau trong ngỡ ngàng ngay tại Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Đường 9, khi đang cầm những nén tâm hương, lặng lẽ thắp cho những người đồng đội đã cùng nhau một thời chia lửa. “Huyền! Trời ơi...”. “Anh Xuyến!”. Họ cùng bật lên, thảng thốt. Đó là một ngày đầu xuân năm 2007.
Tháng 8-2008, tôi tìm gặp cựu chiến binh Nguyễn Bá Xuyến khi cuộc hạnh ngộ sau chiến tranh giữa anh với người con gái có tên là Huyền đã xảy ra hơn một năm, nhưng nhắc lại vẫn thấy khuôn mặt anh ửng đỏ, cái thẹn thùng của một người có tuổi sao bỗng thấy đáng yêu, đáng quý.
Và anh kể tôi nghe câu chuyện diễn ra cách nay đã gần 40 năm.
Tháng 9-1966, 18 tuổi, tốt nghiệp Trường phổ thông cấp III Quỳnh Lưu (Nghệ An), chàng trai Nguyễn Bá Xuyến xung phong nhập ngũ vào Tiểu đoàn 43 thuộc tỉnh đội Nghệ An. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc lúc này đang bước vào thời kỳ khốc liệt, thời kỳ giặc Mỹ đẩy mạnh chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa binh lính Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam, tổ chức ném bom phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa và mở các cuộc hành quân “tìm - diệt” hòng đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng của quân dân miền Nam. Ít lâu sau, vào đầu năm 1968, trước yêu cầu của chiến trường, Tiểu đoàn 43 của Xuyến được mang phiên hiệu mới là Tiểu đoàn 2, cùng một số đơn vị bạn lập thành Trung đoàn 27 (Trung đoàn Đỏ Nghệ An) và lập tức nhận lệnh cơ động vào chiến trường Quảng Trị. Vừa vào đến chiến trường, Tiểu đoàn 2 đã chạm trán với quân Mỹ ở Gia Bình và tại đây, Tiểu đoàn đã đánh hàng trăm trận giữ vững địa bàn để thực hiện nhiệm vụ vây ép căn cứ Cồn Tiên của địch...
Nguyễn Bá Xuyến có mặt trong đội hình chiến đấu từ những ngày đầu tiên còn bỡ ngỡ ấy. Qua 4 năm lăn lộn trên chiến trường, trải qua hàng chục cuộc đọ súng trực tiếp với quân thù, chứng kiến biết bao tấm gương hy sinh anh dũng của đồng đội, chàng học sinh rụt rè, nhát tính ngày nào trở thành một đại đội trưởng tuổi 24 nhanh nhẹn, hoạt bát, đầy bản lĩnh. Tháng 3-1972, quân ta mở chiến dịch giải phóng khu vực Trị - Thiên. Trung đoàn 27 của Nguyễn Bá Xuyến cùng với Sư đoàn 320B và một số đơn vị khác nhận nhiệm vụ tác chiến ở cánh quân phía Bắc, tiến công Trung đoàn 57 ngụy và Trung đoàn 2 ngụy đóng ở điểm cao 544; sau đó chuyển sang bao vây cụm cứ điểm Đông Hà.
Tiểu đoàn 2 chiếm được điểm cao 544. Đại đội 3 do Xuyến làm Đại đội trưởng được giao nhiệm vụ vừa phòng ngự, giữ vững trận địa, vừa tổ chức trinh sát, nắm kỹ địa bàn, xác định kế hoạch tiến công một đơn vị lính dù của địch vừa nhảy dù xuống xã Hải Xuân (Hải Lăng, Quảng Trị), đồng thời tạo điều kiện cho mũi chính diện vượt sông Thạch Hãn vào giải phóng Quảng Trị.
 |
Tấm ảnh Bác Hồ với lời thề quyết tử được viết bằng máu của các chiến sĩ trong trận chiến đấu tiêu diệt cao điểm 544. Ảnh: LÊ BÁ DƯƠNG |
Để hoàn thành nhiệm vụ trên giao, hằng đêm, Xuyến cùng cán bộ đại đội, trung đội tổ chức vượt sông đi trinh sát địa bàn xã Hải Xuân. Có một cô du kích còn rất trẻ làm nhiệm vụ đưa đón tổ trinh sát của Xuyến. Cô gái ít nói nhưng nắm rất kỹ tình hình địch, địa hình cũng như khả năng phối hợp chiến đấu của lực lượng du kích địa phương, khiến cho những lần trinh sát nắm địch của Xuyến rất thuận lợi. Ít hôm sau, Xuyến mới biết “cô du kích” là Bí thư Đảng ủy xã Hải Xuân, có tên là Huyền (1), kém anh hai tuổi. Tâm hồn người đại đội trưởng trẻ tuổi, chưa một lần được nắm bàn tay con gái bỗng xốn xang khó tả...
Đêm ấy, Xuyến lại tổ chức đi trinh sát. Thời gian này, địch tăng cường các lực lượng cảnh giới, thám báo nên nhiều cán bộ khi làm nhiệm vụ trinh sát đã hy sinh. Trước khi đi, Xuyến bàn với đồng chí Chính trị viên đại đội: “Đơn vị chỉ còn 37 tay súng tất thảy, việc giữ vững chỉ huy là rất quan trọng. Đêm nay cậu ở nhà, tớ sẽ dẫn anh em đi; đề phòng trúng ổ phục kích của địch thì đại đội vẫn còn chỉ huy”. Thấy đề nghị của Xuyến hợp lý, chính trị viên đã gật đầu. Thế là một tổ 7 người gồm Xuyến, các trung đội trưởng và liên lạc lên đường. Họ vừa vượt qua con sông Vĩnh Định (một nhánh của sông Thạch Hãn) thì bị rơi vào ổ phục kích.
Thông qua tiếng súng và đội hình phục kích của địch, Xuyến đoán chúng có khoảng một đại đội. Trận đánh không cân sức diễn ra. Xuyến lệnh cho bộ đội vừa chiến đấu, vừa tìm đến các hầm bí mật do nhân dân và lực lượng vũ trang trên địa bàn đào sẵn, ém lại đó để rút lui khi có thời cơ. Xuyến cùng một chiến sĩ bảo vệ hợp thành một tổ đề kháng, dùng AK bắn mạnh vào hướng tiến công chính diện của địch. Trong ít phút, trận địa bỗng ngưng hẳn tiếng AK. Xuyến hiểu là anh em đã tìm được đường rút hoặc đã tìm thấy hầm bí mật. Một cơn mưa đạn nữa lại xối về hướng anh, đồng chí liên lạc đang vận động đi tìm hầm bí mật thì trúng đạn, hy sinh.
Xác định mình đã bị bao vây bốn phía, Xuyến tự nhủ sẽ đợi cho địch bò đến thật gần rồi bắn đến viên đạn cuối cùng. Bỗng anh nghe tiếng ai gọi mình, nhìn ra thì thấy Huyền vừa tìm được nắp hầm bí mật nên vẫy anh rút xuống, cố thủ. Quân địch ập đến nhưng chỉ thấy đồng chí liên lạc đã hy sinh, chúng đoán quanh đây có hầm bí mật nên chốt lại, tổ chức lùng sục. Suốt 3 ngày địch không rút. Có những lần, Huyền và Xuyến nghe rõ gót chân địch giậm thình thịch, tiếng địch chửi thề trên nắp hầm. Bọn chúng dùng cả những chiếc thuốn dài, xâm vào từng cen-ti-mét vuông đất. Huyền là một cô gái rất gan dạ nhưng chưa bao giờ phải chịu đựng một thử thách tinh thần lớn đến thế. Không ít lần, nghe tiếng thuốn lách cách, tiếng những khẩu AR15 lên đạn loạch xoạch cùng những tràng đạn mà quân địch tức giận bắn xối xả ngay trên nóc hầm, đầu óc cô căng thẳng như muốn vỡ tung ra. Những lúc ấy, Xuyến lại như một người anh, một chỗ dựa đầy tin tưởng. Bàn tay thô ráp, sần sùi của người “Dũng sĩ diệt Mỹ” giúp cô lấy lại lòng can đảm, quên đi cái chết lơ lửng trên đầu.
Sau 3 ngày ém mình dưới hầm, Huyền và Xuyến điểm lại vũ khí thấy còn 4 lựu đạn, 2 thủ pháo cùng một khẩu AK và 30 viên đạn. Xuyến bảo: “Đã 3 ngày rồi mà địch không rút, lại lập chốt ngay sát hầm của anh em ta, có nghĩa là chúng quyết tìm ra hầm bí mật. Bây giờ sức lực của chúng ta đang còn, nên tranh thủ chiến đấu thì hơn”. Huyền im lặng, ánh mắt nhìn Xuyến tỏ vẻ hoàn toàn tin tưởng và tuân theo sự chỉ huy của anh. Trong phút chốc, họ bỗng quên đi tình thế hiện tại, trao cho nhau nụ hôn đầu ngọt ngào, lãng mạn. Huyền nói khẽ: “Em đã tự nhủ, người đầu tiên đặt lên môi em nụ hôn cũng sẽ là chồng em sau này”. Xuyến nắm chặt tay Huyền, mạnh dạn kéo cô vào lòng...
Khoảng nửa đêm về sáng, Xuyến hé nắp hầm quan sát. Chốt gác của địch nằm cách hầm bí mật khoảng vài chục mét, hai tên lính canh gác có vẻ mệt mỏi, mắt lơ đãng nhìn về hướng Bắc. Anh quyết định tiến công và dặn Huyền: “Anh sẽ ném lựu đạn liên tục vào tốp địch, trong lúc đó, em tranh thủ chạy ngay về hướng Nam (là hướng có cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng của Huyền). Anh sẽ chiến đấu và rút về hướng đơn vị đóng quân”. Trước giờ quyết tử, họ trao cho nhau những quý giá nhất của tình yêu. Chị quấn vào cổ anh chiếc khăn rằn miền Nam thêu tên chị. Anh đội lên đầu chị chiếc mũ tai bèo của chiến sĩ giải phóng đề tên anh.
Chọn đúng lúc thời cơ hai tên lính gác mải quấy cà phê để uống, anh bật nắp hầm cho chị chạy lên rồi ném liên tiếp 3 quả lựu đạn vào căn lều dã chiến của chúng. Chị cầm một trái lựu đạn lao vút đi trong đêm tối. Không để cho địch kịp ngóc đầu dậy, Xuyến ném tiếp hai quả thủ pháo vào căn lều có tốp địch đang la hét om xòm rồi xách súng chạy về bờ sông Vĩnh Định. Anh nấp vào một bờ tre để thở lấy sức thì nghe thấy tiếng súng AR15 nổ chát chúa, mỗi lúc một dày đặc ở hướng Nam. “Huyền bị phát hiện rồi, trong tay lại không có vũ khí, chắc không thoát nổi”. Nước mắt của Xuyến nhòe đi, trái tim anh quặn thắt lại. Nhưng Xuyến cũng không có thêm thời gian để đau khổ, bọn địch trong lều sau khi hoàn hồn cũng tổ chức một nhóm xục xạo chạy về hướng Xuyến. Trong giây lát suy nghĩ, Xuyến quyết định chạy ngược bờ sông một đoạn, tháo chiếc áo buộc vào một khúc tre, thả trôi theo dòng nước rồi bơi ngược hướng sang bờ sông bên kia. Anh đánh lừa được địch và tìm về đơn vị đang đóng ở xã Triệu Thành, huyện Triệu Hải. Điểm lại đội hình trinh sát đêm ấy, anh em đi bảy nhưng chỉ trở về có ba. “Còn Huyền thì sao?”. Trong Xuyến đau đáu câu hỏi ấy, cứ nghĩ đến lưới đạn dày đặc của kẻ thù, anh nghĩ việc mình sống sót đã là kỳ tích, trong khi hướng của Huyền trống trải, không có địa hình để lợi dụng, chắc không thoát nổi.
Tháng 5-1972, chiến dịch giải phóng Quảng Trị của quân dân ta thu được những thắng lợi liên tiếp. Ta và địch giằng co từng ụ pháo, đoạn hào. Quân ta chiếm được làng Bích La Đông và giao lại cho Đại đội 3 của Xuyến phòng ngự. Cấp trên giao nhiệm vụ: “Phải quyết tử, giữ chắc Bích La Đông trong hai ngày để làm nhiệm vụ cảnh giới cho đội hình tiến công của ta cơ động”. Ngay sáng hôm đó, địch đã tổ chức lực lượng khoảng một tiểu đoàn, có pháo binh, trực thăng yểm trợ tiến công hòng chiếm lại Bích La Đông. Ngày đầu tiên chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 3 thể hiện rõ tinh thần quyết tâm, để địch đến thật gần mới đồng loạt nổ súng. Đến chiều, địch bị thiệt hại nặng, buộc phải lùi ra củng cố đội hình, xin viện binh chuẩn bị cho cuộc tiến công tiếp theo. Đại đội trưởng Xuyến đang đánh điện báo cáo cấp trên thì một quả pháo rơi ngay trước mặt, chiến sĩ thông tin 2W hy sinh tại chỗ, Xuyến bị thương nặng. Vừa lúc đó, pháo địch chuyển làn, bọn lính dù lại hò hét tiến công vào trận địa. Xuyến vẫn kịp chỉ đạo tiểu đội cối 60 cơ động trận địa, tổ chức bắn ứng dụng vào đội hình địch đang tràn vào Bích La Đông. Do hậu quả của vết thương, Xuyến bị ngất và được đồng đội cõng chạy tắt cánh đồng làng Bích La Đông, chuyển về tuyến sau. Từ đây, anh được đưa thẳng về Đoàn an dưỡng 253 đóng ở Nam Sách (Hải Dương). Một tháng sau thì chuyển về Đoàn an dưỡng 405 đóng ở Nghệ An.
Trong thời gian này, bố mẹ lên thăm và nhắc Xuyến tranh thủ lúc dưỡng thương để lấy vợ. Xuyến hiểu tâm tư của bố mẹ nhưng anh xin hai cụ cho một thời gian lựa chọn. Cuối năm 1972 đầu 1973, tranh thủ thời gian chiến trường thưa tiếng súng do quá trình thỏa thuận, đàm phán ở Hội nghị Pa-ri, Xuyến bí mật trở lại đơn vị, tìm kiếm thông tin về Huyền nhưng vô vọng. Tất cả đều không ai biết tung tích Huyền sau chuyến trinh sát cùng đơn vị Xuyến. Ngay cả sau này, khi đất nước đã thống nhất, Xuyến cũng dò hỏi nhưng thông tin duy nhất mà anh được biết chỉ là: Sau chuyến trinh sát ấy, Bí thư Đảng ủy xã Hải Xuân là một đồng chí khác, không phải Huyền.
Bài và ảnh: HỒNG HẢI
(Còn nữa)
(1): Tên đã thay đổi theo yêu cầu của chính nhân vật.