Chúng tôi đứng chân tại Hải Lĩnh, Tĩnh Gia để chuẩn bị chiếm lĩnh trận địa trên đồi Trúc Lâm. Các khẩu đội phải làm công sự tương đối chắc chắn, sẵn sàng chiến đấu. Đại đội phó Dương giao cho tổ trinh sát tấm bản đồ đã dán nối gần hết các mảnh của huyện Tĩnh Gia. Tôi trải bản đồ ra mấy tấm phản trong lán A chỉ huy, chợt trong đầu nhớ câu thơ của nhà thơ Xuân Sách mới đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội: “Về Tĩnh Gia nằm cạnh Biển Đông”.
 |
|
Lưới lửa tầm thấp. Ảnh tư liệu.
|
Dải đất từ mỏm nam phà Ghép qua các xã: Hải Châu, Hải Ninh, Hải An, Tân Dân, Hải Lĩnh, Ninh Hải, Hải Thanh, Ba Làng đến bán đảo Nghi Sơn tiếp giáp Nghệ An, liên tiếp kí hiệu bãi phi lao và dày đặc nghĩa địa được coi là bãi trống có thể tác nghiệp các trận địa pháo biển và pháo cao xạ. Tôi nhìn Hải Lĩnh, trận địa chúng tôi gần kênh Than, dưới chân núi Bợm ghi cao điểm 321m. Trên sườn núi phía đông nhìn xuống quốc lộ số 1, dòng khẩu hiệu cực lớn: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” màu trắng hình như được kết bằng đá tảng. Trên dãy núi ấy phía bên trái cũng ghi là đỉnh Hồ Phú, dưới chân có cầu Hang gồ lên như lưng sư tử, các đỉnh thấp dần về phía nam. Núi Bợm giống cái đầu lân quay về hướng bắc, phía xuôi đỉnh Hồ Phú dưới chân có cầu Hang. Sau này một lần cùng nhà văn Kiều Vượng đi qua cầu Hang anh đã chỉ cho tôi nơi mẹ nữ nhà văn Lê Minh Khuê sau cải cách ruộng đất gánh con bỏ đi khỏi làng. Bà kiệt sức gục xuống bên đầu cầu. Khi có người nhìn thấy thì bà đã tắt thở, đứa em gái Khuê khóc mất giọng vẫn đang lật vạt áo lên tìm vú mẹ. Cầu Hang thành một nơi linh thiêng. Trong cái hang đá rộng lớn một tiểu đội thanh niên xung phong túc trực ngày đêm vá đường, sửa cầu sau mỗi lần máy bay Mỹ thả bom. Cầu Hang năm 1964 biệt kích người nhái của Mỹ ngụy từ biển đột nhập dùng mìn đánh sập cây cầu. Tôi dừng chân thử tính cây số từ cầu Hang lên ngọn đồi Trúc Lâm nơi chúng tôi chiếm lĩnh trận địa để bảo vệ cây cầu nhỏ có tên là cầu Mới (người ta còn gọi là cầu Ba), nơi quốc lộ số 1, đường sắt, kênh Than chụm đầu vào nhau. Cây cầu này nhỏ hơn các cây cầu gần đấy như: Cầu Vằng, cầu Hổ, trên kênh Than (một nhánh kênh nhà Lê). Đoàn thuyền nan thanh niên xung phong đêm đêm vào ra chở hàng. Máy bay hải quân Mỹ đánh cầu Ba liên tục. Đại đội trưởng Nhung hỏi tôi giọng sẵng:
- Trinh sát các cậu dự tính phương án kéo pháo lên đồi chưa?
- Dạ, anh em chúng tôi đang thảo luận các phương án, chưa thống nhất được anh ạ!
Anh Nhung gắt:
- Các cậu trẻ, có trình độ văn hóa mà tính toán chậm bỏ mẹ!
Anh nhìn tôi, vầng trán cao nặng trĩu. Cùng là bộ đội miền Nam tập kết mà anh Dương khác hẳn anh Nhung. Anh Dương yêu cầu sự chủ động, sáng tạo, lúc nào nét mặt cũng như cười, còn anh Nhung mặt cau có, hách và tự phụ. Đại đội trưởng hỏi tiếp:
- Các cậu xem lại đường lên, đấu hai xe Gaz 63 vào kéo có được không?
- Tôi đã đo độ dốc trên bản đồ, xe Gaz 63 bánh đơn, hai cầu đấu hai cái vào nhau nhùng nhằng không kéo được. Phải có đại xa Zil 157 ba cầu mới bươn lên đồi được!
- Lấy đâu ra Zil 157 bây giờ. Cả tiểu đoàn có hai chiếc. Ba đại đội nhìn nhau. Giả sử tiểu đoàn có cho ta một chiếc, kéo lần lượt bốn khẩu pháo rồi chở đồ thì mấy ngày vẫn chưa xong.
Tôi nghĩ một lát rồi ngập ngừng:
- Báo cáo thủ trưởng, ta vận động nhân dân buộc dây chão vào đầu xe Gaz 63 nổ máy cho xe tăng ga, người nối tay nhau cùng kéo pháo, thêm người bám vào xe đẩy, dùng chèn giữ pháo sẽ đưa được pháo lên đồi.
Anh Nhung gần như quát lên:
- Có được không???
Mấy anh em chúng tôi lặng im.
Anh Dương nói to:
- Được. Được anh ạ! Pháo 37 ly của mình lên được đỉnh đồi.
Anh Nhung nhìn gần vào mặt tôi.
- Liên hệ với dân thế nào?
Anh Dương nhìn vào mặt tôi.
- Đồng chí là Phó bí thư chi đoàn, đi cùng Chính trị viên phó đại đội vào làng gặp dân trực tiếp đặt vấn đề với lãnh đạo chỉ huy dân quân và bên Đoàn thanh niên.
Dân Trúc Lâm đã biết tin bộ đội đưa pháo lên đồi đánh máy bay. Bà con đứng lấp ló ở các ngõ và hình như chỉ chờ đại diện đơn vị vào làng liên hệ nhờ là bà con túa ra.
Trời chưa tối hẳn, từ các ngõ nhỏ bà con đã kéo ra chân đồi, nam nữ dân quân, các em thiếu nhi, các ông, các bà có tuổi, tôi nhìn thấy cả các bà mẹ lưng còng gập xuống với dáng đi tất bật hai tay vẩy mạnh về phía sau. Tôi vô cùng xúc động nhìn những dây chão nối nhau buộc chắc vào đầu chiếc xe Gaz 63, người túm vào đông nghịt dài cả trăm mét. Xe chưa nổ máy tiếng hò Thanh Hóa đã cất lên:
Ơ! hò. Tay anh nắm lấy tay em.
Pháo vào công sự anh đem cô này về, dô hò!
Rồi hò nữa:
Ơ! hò. Anh về thưa với mẹ cha.
Bằng lòng em đến thăm nhà anh không ơ hò!
Một giọng đối đáo để:
Ơ! hò. Pháo ơi chị bảo ngoan nào.
Vươn nòng lên nhé đến chào chị đi, ơ hò!
Tiếng cười nói dài theo các dây kéo pháo át cả tiếng rú của chiếc xe Gaz 63 tăng hết ga. Khẩu pháo nòng được vít chặt vào giá, nẩy lên, đi băng băng.
Tôi thấy lòng mình hừng hực thật khó tả. Mới bước vào tuổi hai mươi, rời ghế nhà trường phổ thông nhập ngũ, tôi chỉ được biết việc kéo pháo vào Điện Biên qua lời bài hát “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân và qua bộ phim tài liệu “Việt Nam trên đường thắng lợi” của đạo diễn Liên Xô Rô-man Các-men. Hôm nay nhìn thấy tận mắt sức mạnh của nhân dân, của tình quân dân. Tôi cứ chạy lên đầu đoàn người lại chạy về chỗ các pháo thủ dùng chèn gỗ, chèn, chặn khẩu pháo. Một anh lớn hơn tuổi tôi, đã có vợ mắng yêu:
- Cậu hay thơ phú, vặn lấy một câu hò, hò lên rồi chạy lên kia chen vào dắt pháo, chạm được vai một o mà xem, sức lực tăng lên gấp đôi đấy, ngốc ạ!
Tôi vận hò:
Ơ! hò. Đêm nay kéo pháo lên đồi
Ngày mai mâm pháo anh ngồi bên em, ơ hò!
Cô đứng cạnh tôi giọng lảnh lót:
Trúc Lâm người đẹp người xinh
Yêu nhau hỏi có chung tình không anh
Cánh pháo thủ truyền nhau câu hò của tôi. Các o truyền nhau câu hò của cô gái. Mấy chị ở lâm trường phía bên núi nên đến sau cũng chen vào nắm dây chão. Một chị đẩy tôi:
- Cứ thử chạm tay vào nhau xem sức lực có tăng lên gấp ba bốn lần không nào.
Tôi buông dây lùi ra phía ngoài nhìn khẩu pháo đi theo ngoan ngoãn trước sức mạnh khổng lồ của đoàn người. Sau này còn chứng kiến nhiều đêm nhân dân ra trận địa giúp bộ đội đưa pháo vào trận địa nhưng hình ảnh đưa pháo lên đồi Trúc Lâm in sâu vào tôi không khi nào phai mờ.
Sáng sớm tôi đứng trực ban trinh sát ở Sở chỉ huy. Mặt trời vừa ló rạng, hai chiếc AD6 đã xuất hiện ở hướng 14 (đông bắc) bay dọc theo bờ biển. Tôi lẩm nhẩm thành lời:
- Đồ nhặng xanh mày bay thấp hơn chỗ các ông đứng.
Loại máy bay cánh quạt này có thể xơi của anh mấy tiếng đồng hồ trong một lần bay. Trông dáng nó bay chầm chậm, lừ lừ có vẻ đủng đỉnh nữa, đường bay bài bản, vòng nào cũng vậy, cứ đến một điểm chuẩn nào đấy nó mới nghiêng cánh vòng lại.
Diễu như vậy hồi lâu, tôi bỏ ống nhòm khỏi mắt rủa thầm:
- Mẹ mày, bay kiểu ấy ông ngủ gật cùng quản lí được.
Tôi quay sang bụi cây lá nhỏ mép có răng cưa, thân nhỏ mềm anh em đánh về trồng quanh hố vừa tạo cảnh, vừa ngụy trang. (Loài cây này sau này được một số nghệ nhân uốn thành cây kiểng, thành thế kiểng theo hình con nai, con hoẵng, con rồng, con lân… với kiểu cách rất đẹp dùng để trang trí nơi công cộng. Tôi đã thấy giống cây này được uốn tỉa công phu và được trồng nhiều ở một số công viên văn hóa, công sở, công thự và nhiều người mua về gia đình để trang trí trong sân vườn). Sắp vào xuân, lá ở đầu cành đã nảy lộc, lá xanh non mượt bóng, tôi đưa tay vuốt nhẹ những cái lá chờ mùa xuân. Chợt thấy như vướng mắt ngẩng lên hai chiếc AD6 đã nối nhau bay thẳng vào. Tôi nhẩy một bước lại cái kẻng vồ lấy dùi gõ gấp ba tiếng một. Bốn khẩu pháo bám chiếc máy bay đầu, nó bay ở độ cao khoảng 2.000m, trong ống nhòm nhìn rõ cánh quạt gắn ở đầu quay tít.
Anh Dương cho đại đội bắn một điểm xạ ngắn, đạn chụm phá trước máy bay. Chiếc AD6 vẫn bay như không có điều gì xảy ra. Anh Nhung chửi :
- Đ… mẹ thằng này gan quá ta, cho nó một điểm xạ nữa!
Chùm đạn bắt dạt về bên trái sát cánh máy bay. Có tiếng reo ở công sự khẩu đội một. Chiếc AD6 nghiêng cánh vòng chếch ra phía biển. Tôi nói với anh Dương:
- Nó lượn ra sau rồi vòng lại anh ạ.
Anh Dương hô to:
- Quay pháo hướng 14 (đông bắc)!
Ngay lúc ấy tôi phát hiện ra một tốp phản lực từ hướng biển bay chếch vào. Tôi nghĩ: “Bọn này mới là tốp đánh cầu”, tôi hô to:
- Hướng 14 (đông bắc) tốp A4 bay vào đánh cầu.
Tốp máy bay A4 của Hải quân Mỹ bay về phía núi, chếch phía trên của trận địa tôi, dàn đội hình bàn tay xòe. Tôi lại hô to:
- Máy bay đánh cầu.
Toàn đại đội bắn chiếc đầu, bỏ chiếc thứ hai, bắn chiếc thứ ba. đại đội hai và đại đội ba nổ súng hiệp đồng.
Liên tiếp các tốp máy bay bay vào: 2 chiếc AD6, 3 chiếc F4, một tốp 4 chiếc A4 nữa có 2 chiếc F8 hộ tống. Chúng liên tiếp bổ nhào đánh cầu Ba, một cây cầu ở vị trí đặc biệt xung yếu, đánh một, hủy ba. Trận địa đại đội tôi ở trên cao trở nên rất lợi hại. Pháo thủ vào trận đánh này dày dạn kinh nghiệm hơn, tỏ ra bản lĩnh hơn. Đối với người lính không có thử thách nào khiến họ trưởng thành nhanh bằng chiến đấu với kẻ địch. Anh Dương nhắc trinh sát quản lí chặt các tốp. Đôi mắt trai trẻ tinh tường của tôi vẫn canh chừng hai chiếc AD6. Nó lấp ló sau rặng kè và dãy phi lao bay thẳng vào. Tôi bật hô:
- Bắt chiếc AD6!
Một cậu pháo thủ reo to:
- A đại đội trưởng học sinh lớp mười!
Tôi xấu hổ chữa:
- Báo cáo AD6 bay thẳng vào!
Chiếc đi đầu phóng rốc-két vào trận địa tôi, hai khẩu kịp nổ súng. Vì phóng sớm nên rốc-két đuối tầm nổ ven làng Trúc Lâm. Chiếc thứ hai lợi dụng đám cây kè rậm rạp vào gần phóng rốc-két tới tấp rồi ò è hiện ra. Khói bốc lên gần khẩu đội ba, khẩu đội bốn. Anh Dương hô to:
- Các khẩu đội báo cáo tình hình chiến đấu.
Dân quân Trúc Lâm từ những hầm tránh bom, tránh pháo túa ra, theo đường kéo pháo chạy lên đồi. Các chị tự vệ lâm trường phía sau núi theo đường dốc băng lên khẩu đội ba, khẩu đội bốn. Có các anh, các chị thanh niên xung phong đi thuyền nan theo bờ kênh Than, chạy lên đồi. Bỗng chốc người ken dày đặc trong các công sự pháo. Đánh nhau với máy bay trang bị rốc-két là vũ khí nhẹ. Có ba pháo thủ bị thương nhẹ vì mảnh rốc-két, y tá băng bó xong, cả ba đồng loạt xin ở lại trận địa. Trời đã chuyển tối, các chị, các o thành tốp hò với bộ đội.
Sau này tôi nghiệm ra một điều: Ở nhiều nơi chúng tôi đến thường hát cho nhau nghe. Riêng ở xứ Thanh hễ gặp nhau đông người là hò. Hò là đặc sản của xứ Thanh. Khi hò buộc anh phải thông minh hơn, phải nghệ sĩ hơn. Đại đội trưởng Nhung đứng giữa mấy chị lâm trường. Lúc này trông anh thật có duyên: Vầng trán cao, hai mắt sáng lấp lánh, nói chuyện rất duyên. Anh cám ơn các mẹ, các chị, các o, và xin phép chia tay sớm. Trận hôm nay mới là trận mở đầu. Các trận sau xin các mẹ, các chị, các o sẵn sàng ra giúp đỡ bộ đội.
Tôi đứng ở vị trí trực ban trinh sát theo dõi hai chiếc AD6 lượn lờ ở ngoài xa. Loại máy bay cánh quạt này còn khiến chúng tôi vất vả trong suốt thời gian đơn vị gắn bó với vùng nam Thanh Hóa.
Bút kí lịch sử của Đại tá, nhà văn ĐÀO THẮNG
Về xứ Thanh (kỳ 1)
Kỳ 3: Ăn tết bên cầu Hổ, cầu Đồi