QĐND Online - Bà tôi bảo, đất ấy là đất mường Trời, mường của Then. Trong những câu chuyện của bà kể từ khi tóc tôi vẫn để trái đào, dù chưa biết thế nào là đau khổ nhưng tôi vẫn cảm nhận thấy có cái gì nghẹn ngào lắm. Đáng lẽ đất này phải là miền đất giàu có, phồn thịnh, nhưng sự thăng trầm cùng vận mệnh quốc gia nên ai đó lại đặt cho nơi này cái tên là “đất ăn xin”. Giờ trở lại đất này, tôi cười mà tiếc rằng bà tôi chẳng được chứng kiến những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt những người nông dân được mùa hay anh lái buôn đắt khách, bà chắc cũng không thể hình dung được rằng nơi bà đã sinh ra để nếm trải đau khổ của cuộc sống lại có một “bộ mặt tươi rói” đến vậy. Đất Mường Trời giờ đang chứng minh cho cái tên của mình mà nếu bà tôi thấy sẽ gọi là thiên đường mất…

Mường So của một thời

Tôi mới thấy có hai người gọi nơi ấy là Mường Trời (Mường Then) là bà tôi và nhạc sỹ Vương Khon. Bây giờ người ta quen gọi đất ấy là Mường So (Phong Thổ, Lai Châu). Lâu nay báo chí phát triển, Mường So nổi tiếng hơn nhiều, có mấy anh nhà báo lắm chữ nghĩa cứ về đây vung bút mà thành phóng này ký nọ, người thì bảo quê tôi là đất mỹ nhân, có phóng viên lại nói đất quê tôi là quê hương của các điệu xoè, lại có người bảo đây là đất của vua… họ nói đều đúng. Nhưng dường như báo chí còn chưa biết nhiều về quê tôi với những thăng trầm của nó.

Bà Tao Thị Phè - sao châu (người phục vụ múa hát) cuối cùng của vua Thái Đèo Văn Ân.

Mường thì chắc ai cũng hiểu, còn So có nghĩa là ăn xin. Từ thủa khai sơn, lập đất dưới chân dãy Phu Khọ Nhọ này người dân Mường So (trước kia bao gồm cả các xã lân cận như Bản Lang, Hoang Thèn, Nậm Xe… ngày nay) ít khi được hưởng cuộc sống ấm no cho đến ngày có Đảng. Chưa hết cát cứ phong kiến của các tộc trưởng lại đến sự đô hộ của ngoại bang, đến cả cái anh người Pháp mắt xanh mũi lõ ở tận đâu đâu cũng về đây mà bắt con gái, đánh đập dân làng. Máu và nước mắt dường như còn nhiều hơn cả dòng Nậm Lùm quanh năm rì rào tiếng nước.

Trong ký ức của người già trong Mường, những ngày đen tối nhất là thời kỳ Pháp thuộc. Người Pháp xâm lược Việt Nam đến cả cái thung lũng nơi “thâm sơn cùng cốc” này cũng không thoát ách đô hộ của họ. Giặc giã tung hoành, cướp, phỉ hoạt động. Trước năm 1945, ở đây có 2 đồn quân Pháp đóng, đồn chính ở cạnh khu dinh thự của vua Đèo Văn Ân (gần trung tâm y tế xã ngay nay) và một đồn đặt trên đỉnh cao nhất của dãy Phu Nhọ Khọ thâu tóm toàn bộ khu vực này. Sống dưới ách thống trị của thực dân, đồng bào khốn khó đủ đường. Vật thì phải cống nạp, con gái đẹp thì bị bắt đi làm thứ mua vui, người yêu nước bị bắt bị nhốt trong cái lô cốt đá nhỏ (ở gần trụ sở UBND xã Mường So, nay vẫn còn dấu tích). Nơi đây có nhiều người “được nếm trải” sự đau khổ đó, nhưng ông Lý Thanh Duyên (ở Mường So – Phong Thổ) có lẽ là người có nhiều ký ức sâu đậm nhất.

Ông Duyên nay đã là người “thiên cổ”, nhưng khi chúng tôi gặp ông, ông nhớ lại những ngày tháng bị gặc bắt vì tội theo Việt Minh nét mặt ông biến chuyển mạnh mẽ như những sự kiện đã trải qua đời ông. Ông Duyên kể: Trước cổng đồn giặc Pháp có cái lô cốt đá nhỏ trông như cái cũi lợn dùng để nhốt người hoạt động cách mạng. Đây cũng là nơi ông bị nhốt ở đây 2 năm (từ năm 1945 đến năm 1947). Những đòn roi, tra tấn đã lấy đi của ông con mắt trái, mãi ông mới trốn thoát được! Ông Duyên chỉ là một trong những người thấm cái nhục mất nước, cái tủi phận làm nô lệ!

Sau giải phóng, Mường So đi lên theo chế độ Xã hội Chủ nghĩa, nhưng thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, nạn phỉ hoành hành cùng với cái thuốc phiện một thời làm cho đất này điêu đứng. Con “ma đói nghèo” với cái đuôi dài lê thê cứ bám mãi lấy người dân quê tôi mà dìm, dí tịt họ xuống đất đen với những ước mơ không quá được một bát cơm đầy. Quê tôi nổi tiếng với những làn xoè, điệu tính, nhưng những năm ấy cây tính tẩu, cái quạt xoè dường như cũng buồn thỉu buồn thiu vì chẳng ai động đến. Lịch sử quê tôi cứ thế mà lay lắt…

Nhưng ấy là Mường So của cha ông tôi. Quê tôi giờ thì khác!

Đất của những người xuất chúng

Mời bạn về quê tôi, cùng dự hội Nàng Han, thăm hang Thẩm Tạo, đắm mình trong những điệu múa xoè, tiếng tính tẩu, trong những huyền tích lịch sử và nghe kể về những người đã một thời ngan dọc tung hoành trên đất này để lịch sử phải dành nhiều trang cho họ.

Nổi tiếng đến độ thành một nghi thức tâm linh là truyền thuyết về Nàng Han. Trên nhà sàn, bên bếp lửa, những đêm đông giá rét, lũ trẻ chúng tôi nằm tròn trong vòng tay người lớn mà nghe người già kể chuyện Nàng Han đánh giặc, Nàng Han hoá thân, Nàng Han cải trang thành nam giới… Và cho đến hôm nay dù đã sống mấy chục năm trên cõi người nhưng trong tiềm thức tôi vẫn không quên giọng kể thì thầm như vẽ như thêu về người nữ anh hùng ấy.

Chọn lúa làm cốm cho lễ hội Kin Lẩu Khẩu Mẩu (ăn cốm mới) nét ẩm thực đặc sắc của người dân tộc Thái

Theo truyền thuyết Nàng Han xuất thân trong một gia đình người Thái ở Chiềng Sa (nay là xã Mường So). Nàng là người tài sắc vẹn toàn nhưng tính khí rất mạnh mẽ, cương trực. Thường ngày Nàng hay làm những việc của nặng nhọc mà người đàn ông thường làm. Khi giặc phương Bắc tràn sang, Nàng Han cải trang thành nam nhi, tập hợp nghĩa quân của 16 xứ Thái, chiến đấu chống ngoại bang xâm lược hết sức quật cường. Cuộc khởi nghĩa chống giặc của Nàng Han đã góp công cùng cả nước ngăn chặn ngoại xâm. Giặc tan, Nàng trở về gội đầu tại mó nước ở bản Tây An ngày nay, chẳng may bị quân lính phát hiện thân phận thật nên Nàng đã bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn của Nàng người dân đã lập miếu thờ Nàng tại ngay cái nơi mà Nàng đã về trời. Tế lễ được duy trì hàng năm nhưng đến năm 1948, do nhiều lý do tục lệ này đã không được duy trì. Mới đây, năm 2008 tỉnh Lai Châu mới phục dựng lại lễ hội này làm nức lòng nhân dân nơi đây. Ngày nay, mó nước nơi Nàng đã gội đầu và bay về trời vẫn còn. Dường như có điều gì linh thiêng trong đó nên dù là năm đại hạn, đại hàn nhưng mó nước nơi Nàng đã gội đầu vẫn không khi nào cạn nước. Dù ngày mưa, ngày bão nhưng nước ở mó lúc nào cũng trong vắt. Nhân dân coi đây là mó nước thiêng thường đến đây tế lễ.

Người dân Mường So vẫn coi vua Đèo Văn Ân là một người xuất chúng. Đèo Văn Ân sống không ác, nhưng cũng chẳng đỡ đần được nhiều cho đất ăn xin. Đèo Văn Ân là người ở Lai Châu, mồ côi cha từ khi 14 – 15 tuổi, được họ Lý ở Mường So đem về nuôi. Lớn lên, Ân được người Pháp cho phép cai trị Mường So (chính sách chia để trị), Ân xưng Vua và cát cứ vùng này. Tuy làm vua nhưng là người mang ơn đất này Ân không dám sống ác với bà con. Nhiều khi để tránh mặt quan Pháp, Ân cùng quan lại trong bộ máy chính trị của mình lên du ngoạn hang núi Khum Bom, ở đó hát múa, hút thuốc phiện hàng mấy ngày liền. Ngày nay hang núi nơi Đèo Văn Ân đã ngụ được người dân gọi là Thẩm Tạo (hang Vua). Thẩm Tạo nay vẫn còn những vết ám khói đuốc và nhưng ngách chia thành nhiều cung nhỏ, đang nằm trong kế hoạch xây dựng thành khu du lịch của huyện Phong Thổ.

Người dân Mường So tự hào vì không chỉ trong lịch sử mà ngày nay, nơi đây vẫn là cái nôi đào tạo nên những con người có vai trò lớn với xã hội nơi này. Có đồng chí đang làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, cũng bắt đầu từ cán bộ nơi này, còn các vị lãnh đạo đầu ngành cấp tỉnh thì nhiều khó kể hết. Cũng có nhiều người từ nơi đây mà trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.

Tuy không phải là những người kiệt xuất nhưng con gái Mường So cũng đi vào thi ca với những trang đầy thi vị về vẻ đẹp hình thể, tâm hồn, tài đàn hay, hát giỏi. Con gái Thái ở đây da trắng, môi hồng, tóc dài, đen đến nhức mắt, hơn nữa họ được trời phú cho dáng hình thon thả, mông cong, ngực đầy, lưng ong thắt đáy… đã làm siêu lòng bao tao nhân mặc khách. Chả thế mà vua Đèo Văn Ân đã lấy tới 12 bà vợ mà bà nào cũng thuộc hàng sắc nước hương trời, đàn hay hát giỏi. Nhạc sỹ Vương Khon một lần về qua đất này đã trầm trồ về vẻ đẹp ấy để rồi những tứ nhạc về người con gái Mường Trời đầy thi vị cứ tự nhiên mà đến: “Người đẹp ra suối tắm, cá tìm về xem chân. Người đẹp đi lên nương, dâu, lúa tìm về xem tay. Người đẹp đi lên rừng, hoa tìm về xem mặt, người đẹp hát trong rừng, chim ngập ngừng lắng nghe. Người đẹp bước chân xoè, trai Mường Trời nhìn theo…”. Tôi chẳng biết phải tả về người con gái quê tôi thế nào, nếu bảo chấm điểm cho các cô thì e là hơi quá đáng bởi mỗi cô gái một vẻ, ai cũng xinh, ai cũng đẹp, ai cũng đàn hay hát giỏi. Bởi thế mà Mường So có 18 bản thì có tới 14 bản có từ hai đội văn nghệ trở lên mà đội nào cũng chuyên nghiệp, đội nào cũng có thể trở thành “sao” trên sàn diễn không chuyên, mà trong đó vẻ đẹp hình thể của con gái Mường So dã “ăn đứt” tới nửa số điểm chấm rồi…

Thôi đau đáu nỗi mường Trời

Phu Khọ Nhọ dịch ra là con rồng cái nhỏ, con rồng uốn lượn về tới Mường So chuẩn bị cất cánh bay lên thì bị đồn giặc (đồn cao) đặt ngay đỉnh đầu mà dí tịt lại. Chẳng biết có phải lý do đó mà mãi rồi người dân nơi đây chẳng ngẩng mặt lên được. Nay Đồn Cao chỉ còn là phế tích, lịch sử quê tôi sang trang mới tươi sáng hơn nhiều, và có lẽ con rồng cái nhỏ cũng đã bay được lên tới cung mây, nâng cánh Mường So đi lên.

Tâm linh thì như vậy, còn thực tế, quê tôi giờ đã thay da đổi thịt nhiều lắm so với thời các tiền nhân từng trải. Đường lối, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước giống như chắp thêm cánh cho rồng nên người dân quê tôi đã sớm quên được cái hình ảnh đói nghèo của những năm xưa. Bây giờ dù thôn bản vẫn là những nếp nhà sàn (phong tục dân tộc Thái chỉ ở nhà sàn) nhà nào cũng có đồ dùng vật dụng hiện đại và đắt tiền, hộ nào cũng có của ăn, của để. Trẻ em thì được học hành đầy đủ, còn được Nhà nước cấp cả sách, vở. Người già, người neo đơn, có hoàn cảnh đặc biệt cũng chẳng đến nỗi lo lắm cảnh xế bóng chiều tà vì đã có sự quan tâm của chính quyền. Những hộ nghèo được giúp đỡ vốn, giống, được tập huấn kỹ thuật trồng cây, chăn con vật để từng ngày rũ bỏ quá khứ đói nghèo.

Con số thống kê của UBND xã cũng phần nào phản ánh được không khí ấm no đang về với đất này. Mỗi năm trung bình người mỗi người dân quê tôi có hơn 4 tạ thóc để ăn, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên khoảng 6 triệu đồng một năm. Các bản không còn hộ đói, hộ nghèo ngày một giảm nhanh. Hàng năm tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến lớp luôn đạt gần 100%. Sức khoẻ người dân được chăm sóc tốt từ thôn bản. Các câu lạc bộ phụ nữ, thanh niên hoạt động sôi nổi, sinh hoạt đều đặn, những làn tính tẩu điệu xoè cổ, khó cũng đã tìm được truyền nhân là lớp trẻ. Các thiết chế văn hoá ngày càng được hoàn thiện, các đội văn nghệ thôn, bản không ngừng được củng cố, hoạt động chuyên nghiệp hơn để phục vụ chính bà con dân mình. Chợ Mường So lúc nào cũng chật người qua lại. Nói thật, sống trong không khí của sự đổi mới ấy tôi cứ đinh ninh rằng, ngày xưa chắc vua Đèo Văn Ân cũng chỉ sống sướng đến vậy. Những lớp người của bà tôi chắc trong mơ cũng chẳng dám nghĩ tới hình ảnh của Mường So hôm nay.

Thế là Đất ăn xin đã thôi không còn đau đáu cái sự đói, nghèo nữa. Trong những câu chuyện của dân quê tôi bây giờ chủ đề bát cơm, manh áo đã không thấy nhiều người bàn nữa. Họ đang bàn là khi nào thì mua xe máy mới…

Bài, ảnh: Khánh Kiên